Tăng Trưởng Xuất Khẩu Thủy Sản Việt Nam 9 Tháng Đầu Năm 2025: Đà Tăng Tích Cực Nhưng Quý Cuối Gặp Thách Thức
Kết thúc quý III/2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt 2,7 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, tuy thấp hơn hai quý đầu năm. Lũy kế 9 tháng, xuất khẩu đạt 8,36 tỷ USD, tăng 16%, cho thấy ngành vẫn duy trì đà tăng trưởng tích cực dù chịu nhiều sức ép. Sự sụt giảm nhẹ trong quý III phản ánh tác động của thuế đối ứng 20% từ Hoa Kỳ áp dụng từ tháng 8, khiến nhiều doanh nghiệp phải điều chỉnh kế hoạch giao hàng và tìm hướng chuyển hướng thị trường.
Trong cơ cấu sản phẩm, tôm tiếp tục là mặt hàng chủ lực với kim ngạch 3,4 tỷ USD (+22%), mức cao nhất trong ba năm qua. Cá tra đạt 1,6 tỷ USD (+9%), nhờ phục hồi tại các thị trường CPTPP và Trung Đông. Mực, bạch tuộc, nhuyễn thể và cua ghẹ đều ghi nhận tăng trưởng hai con số, trong khi cá ngừ giảm nhẹ do thiếu nguyên liệu và xung đột tại Trung Đông ảnh hưởng chuỗi cung ứng.
Nguồn: VASEP
Các thị trường xuất khẩu chính gồm Trung Quốc và Hồng Kông (1,8 tỷ USD, +34%), Hoa Kỳ (1,4 tỷ USD, +8,4%), Nhật Bản (1,3 tỷ USD, +17%), và EU (884 triệu USD, +13%). Đáng chú ý, CPTPP tiếp tục tăng trưởng ấn tượng +25%, cho thấy hiệu quả của việc tận dụng các hiệp định thương mại tự do để đa dạng hóa thị trường.
Tuy nhiên, bức tranh quý III cũng bộc lộ nhiều thách thức. Thuế đối ứng Mỹ, các quy định về truy xuất nguồn gốc và bảo vệ động vật có vú biển (MMPA) đang trở thành rào cản lớn cho xuất khẩu quý IV và năm 2026. Thẻ vàng IUU của EU vẫn chưa được gỡ bỏ, khiến nhóm hải sản khai thác gặp khó khi tiếp cận thị trường cao cấp. Thêm vào đó, biến động tỷ giá, chi phí logistics tăng và cạnh tranh từ các đối thủ như Ấn Độ, Ecuador, Indonesia gây áp lực lên lợi nhuận doanh nghiệp Việt.
Dù vậy, vẫn tồn tại cơ hội chiến lược. EU nới lỏng rào cản kỹ thuật với thủy sản nuôi trồng, mở ra dư địa tăng trưởng cho tôm và cá tra. CPTPP mở rộng với Anh, giúp đa dạng hóa kênh thương mại và mở rộng cơ hội cho sản phẩm chế biến cao cấp. Trung Quốc vẫn duy trì nhu cầu lớn đối với sản phẩm tươi sống và cao cấp phục vụ HORECA, đặc biệt trong các tháng cuối năm.
Dự báo quý IV/2025, xuất khẩu thủy sản sẽ chững lại, đạt khoảng 2,19 tỷ USD, giảm hơn 22% so với cùng kỳ do tác động của thuế đối ứng và nguy cơ áp thuế CBPG đối với tôm vào Mỹ. Tôm và cá tra – hai mặt hàng chủ lực – dự kiến giảm tốc, trong khi cá ngừ, mực, bạch tuộc chịu ảnh hưởng từ thẻ vàng IUU và quy định MMPA. Ngược lại, EU và Trung Quốc vẫn duy trì nhu cầu ổn định, giúp kim ngạch cả năm 2025 ước đạt 10,5 tỷ USD, tăng khoảng 5% so với năm 2024.
Tình hình xuất khẩu quý I/2026 được dự báo tiếp tục giảm do tác động dây chuyền từ thuế và MMPA. Từ quý II/2026, tốc độ phục hồi sẽ phụ thuộc vào khả năng Việt Nam tháo gỡ rào cản thuế, IUU, cùng việc đa dạng hóa thị trường và nâng tỷ trọng hàng chế biến giá trị cao.
Kho Lạnh Kỷ Nguyên Mới (NECS) – Uy tín toàn cầu, dẫn đầu công nghệ
New Era Cold Storage (NECS) – Leading in Technology, Trusting in Business
TP.HCM Hợp Nhất Ba Hiệp Hội Logistics – Hướng Đến Trung Tâm Logistics Hàng Đầu Đông Nam Á
Ba hiệp hội logistics lớn của TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu đã hợp nhất, được kỳ vọng sẽ tạo ra xung lực mới, tăng sức cạnh tranh và sự liên kết trong toàn vùng.
Bộ Công Thương kỳ vọng sau khi ba hiệp hội hợp nhất, cụm cảng mới có thể vươn lên nhóm 30 – 35 toàn cầu – Ảnh: QUANG ĐỊNH
Hiệp hội duy nhất tại Việt Nam kết hợp cả hai lĩnh vực logistics và cảng biển
Ngày 31-10, ba hiệp hội gồm Hiệp hội Logistics Bình Dương, Hiệp hội Logistics và Cảng biển Bà Rịa – Vũng Tàu và Hiệp hội Logistics TP.HCM chính thức hợp nhất, thành lập Hiệp hội Logistics và Cảng biển TP.HCM (HLA).
Theo cơ cấu nhân sự được thông qua tại đại hội, bà Đặng Thị Minh Phương – Tổng giám đốc Công ty CP MP Logistics – được bầu giữ chức Chủ tịch HLA.
7 Phó chủ tịch gồm: Bà Võ Thị Phương Lan – Chủ Tịch HĐQT – TGĐ Công Ty CP Giao Nhận Vận Tải Mỹ Á, ông Trương Tấn Lộc – Chủ tịch Cảng TCIT – Cảng Quốc Tế Tân Cảng – Cái Mép, bà Huỳnh Đinh Thái Linh – Giám Đốc Phát Triển Thương Mại Quốc Tế & Logistics – Tập đoàn Becamex, ông Cao Hồng Phong – Phó Tổng Giám Đốc Công Ty CP Cảng Cái Mép Gemadept – Terminal Link, ông Lê Phan Minh Vũ – Phó Tổng Giám Đốc BWID, ông Lương Quang Thi – Chủ Tịch HĐQT Công Ty CP Giải Pháp Thương Mại ABA Cooltrans, ông Nguyễn Lê Chơn Tâm – Tổng Giám Đốc Công Ty CP Cảng Sài Gòn.
TP.HCM hợp nhất ba hiệp hội, hướng đến trung tâm logistics hàng đầu khu vực Đông Nam Á – Ảnh: CÔNG TRUNG
Tại đại hội, các doanh nghiệp thành viên đã thống nhất mục tiêu nâng tầm dịch vụ logistics và phát triển hệ thống cảng biển TP.HCM theo hướng đồng bộ, hiện đại và hội nhập khu vực.
Phát biểu tại sự kiện, bà Đặng Thị Minh Phương cho biết HLA là hiệp hội duy nhất tại Việt Nam kết hợp cả hai lĩnh vực logistics và cảng biển, đánh dấu bước phát triển quan trọng của ngành.
Tân Chủ tịch Hiệp hội Logistics và Cảng biển TP.HCM tự hào khi được góp phần kết nối sức mạnh của cả ba địa phương TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu, nhằm tạo nên một hệ sinh thái logistics thống nhất, hiệu quả hơn.
Với sự đồng hành của các cơ quan quản lý, bà Phương tin tưởng thứ hạng của hệ thống cảng biển TP.HCM sẽ được nâng lên rõ rệt trong thời gian tới.
“Mục tiêu của chúng tôi là đưa ngành dịch vụ logistics TP.HCM phát triển mạnh mẽ, trở thành trung tâm logistics hàng đầu khu vực Đông Nam Á”, bà Phương nhấn mạnh.
Cảng biển TP.HCM sẽ thăng thứ hạng trên toàn cầu
Ông Trần Thanh Hải – Phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) – đánh giá TP.HCM là địa bàn có hoạt động logistics và xuất nhập khẩu sôi động bậc nhất cả nước.
Việc hợp nhất ba hiệp hội logistics của TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu thành một tổ chức thống nhất tạo ra xung lực mới, tăng sức cạnh tranh và sự liên kết trong toàn vùng.
Theo ông Hải, cả ba địa phương TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu đều là những trung tâm sản xuất, xuất nhập khẩu và logistics năng động.
Trước đây mỗi địa phương đều có hiệp hội riêng, cho thấy ngành logistics khu vực phía Nam đã phát triển mạnh mẽ, trong khi nhiều địa phương khác vẫn đang trong giai đoạn hình thành mô hình tổ chức tương tự.
Với sự hợp nhất, hệ thống cảng biển TP.HCM khi kết nối cùng các cảng ở Bà Rịa – Vũng Tàu sẽ có quy mô và năng lực cạnh tranh vượt trội. Trước đây, cảng biển TP.HCM và cảng Bà Rịa – Vũng Tàu riêng rẽ đã nằm trong top 50 cảng lớn nhất thế giới. Khi hợp nhất, cụm cảng mới có thể vươn lên nhóm 30 – 35 toàn cầu.
Bên cạnh đó, TP.HCM có lợi thế đặc biệt khi hội tụ đủ các loại hình vận tải cảng biển, hàng không, đường bộ, đường sắt và đường thủy nội địa, cùng hệ thống kho bãi, giao nhận, hải quan điện tử phát triển mạnh mẽ. TP.HCM sẽ trở thành trung tâm logistics quốc tế, không chỉ dẫn đầu Việt Nam mà còn vươn tầm khu vực Đông Nam Á và thế giới.
Ông Hải cho biết ngày 9-10, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2229/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2050.
Theo chiến lược này, TP.HCM cùng Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ được xác định là năm trung tâm logistics mang tầm quốc tế trong 10 năm tới.
TP.HCM có lợi thế đặc biệt khi hội tụ đủ các loại hình vận tải cảng biển, hàng không, đường bộ, đường sắt và đường thủy nội địa – Ảnh: QUANG ĐỊNH
“Việc ra đời Hiệp hội Logistics và Cảng biển TP.HCM đúng thời điểm này là sự trùng hợp đầy ý nghĩa. Đây là cơ hội để TP.HCM đi đầu trong việc triển khai chiến lược logistics quốc gia, khẳng định vai trò trung tâm đầu tàu của cả nước” – ông Hải nhấn mạnh.
Ông Lê Văn Danh – Phó giám đốc Sở Công Thương TP.HCM – cho biết TP.HCM hiện chiếm 23,5% GRDP cả nước, trong đó ngành logistics đóng góp khoảng 8,5%.
Riêng hàng hóa xuất nhập khẩu qua hệ thống cảng biển TP.HCM chiếm tới 70% tổng lượng hàng hóa cả nước, khẳng định vai trò trọng yếu của ngành trong chuỗi cung ứng quốc gia.
Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển logistics Việt Nam, trong đó xác định TP.HCM phải trở thành trung tâm logistics đẳng cấp quốc tế.
Sở Công Thương TP.HCM cam kết đồng hành cùng Hiệp hội Logistics và Cảng biển TP.HCM trong việc hoạch định chiến lược, xây dựng cơ chế và chính sách phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động logistics.
Bên cạnh đó, Sở Công Thương giao ba vai trò trọng tâm cho Hiệp hội Logistics và Cảng biển TP.HCM.
Thứ nhất làm đầu mối kết nối doanh nghiệp không chỉ trong ngành logistics mà còn giữa các lĩnh vực liên quan.
Thứ hai huy động nguồn lực xã hội, tham gia đầu tư phát triển hạ tầng và dịch vụ logistics.
Thứ ba tiên phong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, xây dựng hệ sinh thái logistics, cảng biển xanh, hiện đại và hội nhập quốc tế.
Nhiều động lực phát triển và chính sách hỗ trợ mạnh mẽ
Ông Danh cho biết TP.HCM đang triển khai đề án quy hoạch 8 trung tâm logistics quy mô lớn trên toàn địa bàn, đồng thời xây dựng chính sách hỗ trợ lãi suất đầu tư, có thể hỗ trợ tới 50% lãi suất cho các dự án trung tâm logistics trọng điểm.
Song song đó, thành phố đang hoàn thiện cơ chế thu hút đầu tư thông thoáng, từ quy hoạch đất đai, kêu gọi doanh nghiệp chiến lược, đến chính sách vận hành thuận lợi.
Trong hai tháng qua, Sở Công Thương TP.HCM đã xây dựng chính sách đặc thù dựa trên Nghị quyết 98 của Quốc hội, tập trung vào hai nội dung lớn liên quan đến logistics.
Một là cho phép kêu gọi nhà đầu tư chiến lược tham gia các dự án trung tâm logistics quy mô lớn.
Hai là nghiên cứu thành lập và vận hành khu thương mại tự do (FTZ) với ưu đãi về thuế, đất đai và thủ tục hành chính, nhằm tăng sức cạnh tranh và thu hút đầu tư quốc tế.
“Với định hướng đó, TP.HCM kỳ vọng trở thành đầu tàu logistics của Việt Nam, góp phần khẳng định vị thế trung tâm kinh tế, thương mại hàng đầu khu vực”, ông Danh khẳng định.
Nguồn: Báo Tuổi Trẻ
Kho Lạnh Kỷ Nguyên Mới (NECS) – Uy tín toàn cầu, dẫn đầu công nghệ
New Era Cold Storage (NECS) – Leading in Technology, Trusting in Business
NECS là đơn vị tiên phong trong lĩnh vực kho lạnh và chuỗi cung ứng tại Việt Nam, với hệ thống kho bãi hiện đại và mạng lưới đối tác chiến lược toàn cầu. Chúng tôi tìm kiếm một Nhân viên/ Chuyên viên Kinh doanh tài năng – người đóng vai trò nòng cốt trong việc mở rộng thị trường và hiện thực hóa chiến lược phát triển kinh doanh của công ty.
Chịu trách nhiệm phát triển thị trường, tìm kiếm khách hàng, triển khai bán hàng và chăm sóc khách hàng trong lĩnh vực cho thuê kho lạnh/kho mát/kho ngoại quan, logistics, đại lý hải quan, đảm bảo đạt và vượt chỉ tiêu doanh thu được giao.
Phát triển thị trường và tìm kiếm khách hàng:
Nghiên cứu thị trường, ngành hàng tiềm năng và đối thủ cạnh tranh.
Tìm kiếm và tiếp cận khách hàng mới qua các kênh trực tiếp, trực tuyến, mối quan hệ, hội chợ…
Lập kế hoạch tiếp cận thị trường và triển khai kế hoạch khai thác khách hàng mục tiêu.
Đảm bảo doanh thu theo kế hoạch tháng/quý được giao từ cấp trên.
Bán hàng và triển khai dịch vụ:
Tiếp nhận và tư vấn dịch vụ cho thuê kho/logistics phù hợp với nhu cầu khách hàng.
Soạn thảo, thương thảo, làm báo giá và ký kết hợp đồng dịch vụ.
Phối hợp với các bộ phận liên quan (vận hành kho, kế toán, pháp lý…) để đảm bảo quá trình triển khai dịch vụ đúng cam kết.
Giám sát tiến độ thực hiện dịch vụ, xử lý các phát sinh và đảm bảo sự hài lòng của khách hàng.
Chăm sóc khách hàng và duy trì mối quan hệ:
Chăm sóc khách hàng hiện hữu, giải đáp thắc mắc, tiếp nhận và xử lý khiếu nại.
Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ và duy trì hợp tác lâu dài với khách hàng.
Báo cáo và các công việc khác:
Lập báo cáo tuần/tháng/quý về tình hình kinh doanh, tiến độ, doanh thu và phản hồi khách hàng.
Phân tích kết quả, đề xuất các biện pháp cải thiện hiệu quả bán hàng.
Thực hiện các công việc khác theo phân công của quản lý.
Yêu cầu ứng viên:
Trình độ học vấn:
Tốt nghiệp Cao đẳng/Đại học chuyên ngành: Quản trị kinh doanh, Logistics, Xuất nhập khẩu, Ngoại thương, Kinh tế hoặc các ngành liên quan.
Kinh nghiệm:
Kinh nghiệm từ 1 – 3 năm, ưu tiên ứng viên đã từng làm sales dịch vụ kho lạnh/kho hàng/kho ngoại quan/logistics hoặc sales B2B …
Ưu tiên có kinh nghiệm về kinh doanh thủy hải sản, nông sản, xuất nhập khẩu.
Kỹ năng:
Thành thạo kỹ năng bán hàng và chăm sóc khách hàng.
Hiểu biết về quy trình khai thác kho, dịch vụ lưu trữ và vận hành lạnh/mát.
Kỹ năng đàm phán, thương lượng và thuyết phục khách hàng.
Tư duy dịch vụ và khả năng xử lý tình huống linh hoạt.
Trình độ ngoại ngữ: Tiếng Anh giao tiếp cơ bản, đọc hiểu hợp đồng/báo giá.
Trình độ tin học: Word, Excel, PowerPoint, sử dụng hệ thống CRM/phần mềm quản lý khách hàng… là lợi thế.
Thái độ, phẩm chất:
Nhiệt tình, trung thực, chịu được áp lực doanh số, có định hướng khách hàng.
Giao tiếp tốt, chủ động, có tinh thần phục vụ khách hàng.
Tiêu đề email: [ỨNG TUYỂN CHUYÊN VIÊN KINH DOANH – HỌ TÊN].
Tuyển dụng Nhân viên Nhập liệu
MÔ TẢ CÔNG VIỆC
Tuyển dụng vị trí: Nhân viên Nhập liệu
Phòng ban: Phòng Vận hành kho
Địa điểm làm việc: KCN Phú An Thạnh, xã Bến Lức, tỉnh Tây Ninh (Long An cũ).
Đơn vị: Công ty Cổ phần Kho lạnh Kỷ Nguyên Mới (NECS).
MÔ TẢ CÔNG VIỆC
– Thực hiện và hoàn thành nhập- xuất- hạ kiểm hàng cho khách hàng.
– Hoàn thành chứng từ ký nhận, lưu trữ, gửi mail cho khách hàng, gửi chứng từ lên phòng kế toán.
– Tương tác, trao đổi và phản hồi thông tin với khách hàng.
– Cập nhật kế hoạch của khách hàng đến các phòng ban.
– Trình đề xuất mua văn phòng phẩm.
– Cập nhật tiêu hao vật tư (màng bọc, băng keo)
– Thực hiện công việc theo bảng mô tả công việc của nhân viên nhập liệu.
– Công việc cụ thể trao đổi khi phỏng vấn.
QUYỀN LỢI:
Thưởng theo KPI.
Xe đưa đón từ TP. HCM.
Khám sức khoẻ định kỳ hàng năm.
Lương Tháng 13.
Thưởng Lễ/Tết.
Tham gia đầy đủ BHXH các loại.
12 ngày phép năm.
Cung cấp đồng phục.
Môi trường làm việc chuyên nghiệp.
Cơ hội được đào tạo chuyên sâu về sản phẩm và quy trình dịch vụ.
Được đào tạo để thường xuyên nâng cao nghiệp vụ. Cơ hội được học hỏi, làm việc với công nghệ mới.
Thời gian làm việc: Ca 1: 07-15h; Ca 2: 15-23h (Xoay ca mỗi tuần)
YÊU CẦU ỨNG VIÊN
Tốt nghiệp cao đẳng/đại học các ngành Kế toán, Tài chính, Kiểm toán
NECS là đơn vị tiên phong trong lĩnh vực kho lạnh và chuỗi cung ứng tại Việt Nam, với hệ thống kho bãi hiện đại và mạng lưới đối tác chiến lược toàn cầu.
NECS Tham Gia CFSE 2025 – Kiến tạo hệ sinh thái logistics đạt chuẩn quốc tế cho ngành thủy sản toàn cầu
Sau hành trình ghi dấu ấn tại các triển lãm quốc tế, Trung Quốc được NECS chọn làm điểm đến chiến lược tiếp theo – nơi hội tụ của những trung tâm logistics, thương mại và thủy sản lớn nhất thế giới. Không chỉ là thị trường tiêu thụ khổng lồ, Trung Quốc còn là “cửa ngõ” kết nối Đông – Tây, mở ra cơ hội hợp tác và phát triển mạng lưới logistics lạnh xuyên biên giới.
Mở Rộng Hành Trình Toàn Cầu, Kết Nối Chuỗi Cung Ứng Tương Lai
NECS tự hào góp mặt tại China Fisheries & Seafood Expo (CFSE) 2025, diễn ra từ 29–31/10/2025 tại Hongdao International Convention and Exhibition Center, Thanh Đảo,Trung Quốc, để giới thiệu đến cộng đồng quốc tế những giải pháp logistics lạnh toàn diện mang dấu ấn Việt Nam.
Đến với CFSE 2025, NECS mang theo hình ảnh của một hệ sinh thái logistics lạnh toàn diện và khép kín, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu lưu trữ, thông quan và vận chuyển cho chuỗi cung ứng thủy sản và thực phẩm toàn cầu.
Từ hệ thống kho lạnh tiêu chuẩn quốc tế, dịch vụ đại lý hải quan và logistics xuyên biên giới, đến giải pháp vận tải tích hợp và công nghệ quản trị thông minh, NECS tạo nên chuỗi giá trị liền mạch “từ cảng – kho – thông quan – vận chuyển”. Tất cả được thiết kế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp xuất – nhập khẩu nhanh hơn, an toàn hơn và tối ưu chi phí hơn – đặc biệt trong bối cảnh thương mại khu vực đang mở rộng và kết nối sâu với Trung Quốc.
Kết Nối Với NECS Tại CFSE 2025!
Chúng tôi rất mong được đón tiếp quý khách hàng, đối tác tại gian hàng NECS trong sự kiện CFSE 2025. Đây là nơi bạn có thể:
Trải nghiệm trực tiếp hệ sinh thái logistics khép kín từ cảng, thông quan, kho bãi đến vận chuyển
Thảo luận giải pháp logistics toàn diện cho thị trường Trung Quốc và Châu Á
Thiết lập mối quan hệ hợp tác chiến lược, mở rộng mạng lưới giao thương
Chúng tôi rất mong được kết nối trực tiếp với các đối tác, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu và đơn vị logistics quốc tế – cùng chia sẻ tầm nhìn về một chuỗi cung ứng lạnh bền vững, thông minh và hiệu quả.
Địa điểm
Hongdao International Convention and Exhibition Center
Thời gian
29-31/10/2025
Gian hàng
B8 - 1415
Đặt Lịch Hẹn Với Chúng Tôi!
Xuất Khẩu Thủy Sản Tăng Tốc 9 Tháng Đầu Năm: Đan Xen Cả Cơ Hội Lẫn Thách Thức
Tháng 9/2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt gần 991 triệu USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, con số đã cán mốc 8,33 tỷ USD, cao hơn 15,5% so với năm 2024. Kết quả này không chỉ phản ánh sự phục hồi mạnh mẽ của ngành sau giai đoạn nhiều biến động, mà còn thể hiện khả năng thích ứng nhanh chóng của doanh nghiệp Việt trước những rào cản trên thị trường quốc tế.
Tôm và cá tra tiếp tục giữ vai trò chủ lực
Trong cơ cấu sản phẩm, tôm tiếp tục dẫn đầu khi riêng tháng 9 đã mang về gần 410 triệu USD, đưa tổng kim ngạch 9 tháng lên 3,38 tỷ USD (+20,3%). Động lực tăng trưởng đến từ nhu cầu ổn định tại Mỹ, Nhật Bản, EU cùng với sự gia tăng đơn hàng ở các thị trường trong khu vực.
Cá tra cũng đạt kết quả khả quan, với 191 triệu USD trong tháng 9 (+11%), nâng tổng kim ngạch 9 tháng lên hơn 1,6 tỷ USD, tăng gần 10% so với cùng kỳ. Sự phục hồi nhu cầu tại Trung Quốc, Mỹ và một số nước Trung Đông đã góp phần củng cố vị thế cá tra Việt Nam.
Ngoài ra, cá biển và mực – bạch tuộc cũng tăng trưởng mạnh. 9 tháng, cá biển đạt 1,61 tỷ USD (+18,5%), mực – bạch tuộc 550 triệu USD (+18,7%). Đặc biệt, nhuyễn thể có vỏ ghi nhận mức tăng hơn 30%, đạt 192 triệu USD. Trái lại, cá ngừ giảm nhẹ còn 705 triệu USD (-3,2%), phản ánh sự cạnh tranh gay gắt của phân khúc cá đại dương.
Thị trường: Trung Quốc – Hàn Quốc bứt phá, Mỹ chững lại
Về thị trường, Trung Quốc và Hồng Kông vẫn là điểm sáng khi 9 tháng đạt 1,76 tỷ USD (+32,1%), dù riêng tháng 9 có sụt nhẹ. Mỹ lại cho thấy sự chững lại: tháng 9 giảm hơn 6%, nhưng tính chung 9 tháng vẫn đạt 1,41 tỷ USD (+6,8%). Nguyên nhân đến từ thuế chống bán phá giá (CBPG) và quy định nghiêm ngặt của Đạo luật Bảo vệ động vật có vú biển (MMPA).
Nhật Bản và EU tiếp tục duy trì tăng trưởng ổn định, lần lượt đạt 1,27 tỷ USD (+15,6%) và 885 triệu USD (+13,3%). Hàn Quốc nổi lên với tốc độ tăng gần 50% trong tháng 9, đưa lũy kế 9 tháng lên 645 triệu USD (+13%). Ngoài ra, ASEAN (536 triệu USD, +23,3%) và Trung Đông (295 triệu USD, +7,6%) cũng trở thành “cửa ngõ” tiềm năng, riêng tháng 9 tăng hơn 50%.
Linh hoạt tận dụng cơ hội
Đằng sau kết quả tăng trưởng là sự chủ động của doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, tận dụng giai đoạn trước khi một số rào cản thuế và kỹ thuật mới được áp dụng. Nhiều công ty đã tái cơ cấu thị trường, gia tăng xuất khẩu sang châu Á và song song giữ vững các thị trường truyền thống.
Đặc biệt, xu hướng tập trung vào sản phẩm chế biến, giá trị gia tăng, đáp ứng tiêu chuẩn an toàn và truy xuất nguồn gốc đã giúp thủy sản Việt duy trì lợi thế cạnh tranh, nhất là ở phân khúc trung – cao cấp.
Thách thức còn nhiều
Ngành thủy sản vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn:
Thuế CBPG và thuế đối ứng tại Mỹ cùng một số thị trường, khiến lợi nhuận bị bào mòn.
Quy định khắt khe của MMPA gây áp lực lên nhóm sản phẩm khai thác hải sản.
Thẻ vàng IUU từ EU chưa được gỡ bỏ, tiếp tục làm giảm uy tín và gia tăng chi phí xuất khẩu.
Sức ép cạnh tranh từ các quốc gia như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia, Ecuador… ngày càng lớn, đặc biệt ở tôm và cá tra.
Hướng đi cho giai đoạn tới
Theo các chuyên gia, để duy trì đà tăng trưởng, ngành thủy sản cần tập trung vào 3 giải pháp:
Theo dõi sát diễn biến thị trường và chính sách thương mại để điều chỉnh kịp thời.
Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, bên cạnh Mỹ, EU, Nhật Bản, cần tăng cường khai thác ASEAN, Trung Đông và thị trường ngách.
Đẩy mạnh sản phẩm giá trị gia tăng, đa dạng hóa danh mục để đáp ứng xu hướng tiêu dùng toàn cầu.
Song song, ngành cần đổi mới công nghệ trong nuôi trồng – chế biến và nâng cao thương hiệu quốc gia qua kênh ẩm thực cao cấp và thương mại điện tử.
Có thể nói, sau 9 tháng 2025, xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã cho thấy sự bứt phá với tổng kim ngạch vượt 8,3 tỷ USD. Tuy nhiên, để bảo toàn thành quả và tiếp tục mở rộng, sự chủ động, linh hoạt và sáng tạo sẽ là chìa khóa quyết định.
Kho Lạnh Kỷ Nguyên Mới (NECS) – Uy tín toàn cầu, dẫn đầu công nghệ
New Era Cold Storage (NECS) – Leading in Technology, Trusting in Business
Giải pháp thúc đẩy ngành logistics Việt Nam phát triển bền vững và hội nhập
Cùng với điều kiện địa lý thuận lợi, Việt Nam được đánh giá có nhiều cơ hội để thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ logistics, khi hạ tầng giao thông đường bộ, đường không, đường biển, kho bãi, hạ tầng thương mại, trung tâm logistics không ngừng được mở rộng với quy mô lớn, rộng khắp. Bài viết khái quát thực trạng phát triển logistics ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số khuyến nghị liên quan.
Giải pháp thúc đẩy ngành logistics Việt Nam phát triển bền vững và hội nhập
ĐẶT VẤN ĐỀ
Là quốc gia nằm trong khu vực phát triển năng động của thế giới, nơi luồng hàng hoá tập trung giao lưu mạnh và nền kinh tế có độ mở lớn (trên 200%), cùng 17 hiệp định thương mại tự do đã được ký kết, thực thi với gần 70 quốc gia, vùng lãnh thổ (trong đó bao gồm hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới, chiếm 90% GDP toàn cầu); kim ngạch xuất nhập khẩu và thương mại điện tử luôn tăng trưởng ở mức 2 con số, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường có nhiều tiềm năng, điều kiện để phát triển dịch vụ logistics. Mặc dù đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng, nhưng ngành logistics Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, như: chi phí cao, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, mức độ kết nối giữa các phương thức vận tải còn thấp, nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu, phần lớn doanh nghiệp nội địa có quy mô nhỏ, thiếu năng lực cạnh tranh và chưa tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Vì vậy, trong thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để khắc phục những khó khăn, thách thức trên.
CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Để tận dụng các lợi thế, cơ hội và đưa logistics trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp tích cực vào cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đối với hoạt động này.
Theo đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) xác định, logistics là một “ngành dịch vụ giá trị gia tăng cao” và phải “hiện đại và mở rộng” dịch vụ logistics. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) đã xác định, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ là 1 trong 3 đột phá chiến lược để phát triển đất nước. Thực hiện nhiệm vụ trên, nước ta đã từng bước nâng cấp đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển, đường thủy nội địa giữa các địa phương và kết nối đồng thời với các nước.
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành hàng loạt những chính sách. Điển hình như: ngày 14/2/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 200/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025. Ngày 15/5/2018, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/2018/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo, trong đó, đề ra mục tiêu từng bước giảm chi phí logistics xuống mức bằng khoảng 18% GDP; cải thiện Xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) thêm 10 bậc (hiện xếp thứ 64/160)… Ngày 18/7/2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 21/CT-TTg về đẩy mạnh triển khai các giải pháp nhằm giảm chi phí logistics, kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tập trung cải thiện cơ sở hạ tầng logistics gắn với thương mại điện tử, kết hợp logistics với thương mại điện tử theo xu hướng phát triển hiện nay trên thế giới và khu vực; Khuyến khích, hướng dẫn doanh nghiệp trong một số ngành áp dụng mô hình quản trị chuỗi cung ứng tiên tiến trong quá trình sản xuất, kinh doanh, trong đó chú trọng triển khai các hoạt động logistics trên nền tảng công nghệ thông tin và các công nghệ mới…
Đến ngày 22/2/2021, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 221/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/2/2017 về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025. Ngày 30/1/2022 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, để góp phần đưa nền kinh tế sớm vượt qua khó khăn, giảm chi phí logistics đáp ứng được với sự vận hành của nền kinh tế trong giai đoạn mới, không lỡ nhịp với tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu, đồng thời tạo nền tảng và điều kiện thuận lợi cho phát triển dịch vụ logistics nói riêng và nền kinh tế nói chung cho cả giai đoạn đến năm 2025 và các năm tiếp theo.
Gần đây nhất, ngày 16/12/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 163/NQ-CP về việc đẩy mạnh triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam với quan điểm: Phát triển logistics gắn với chuỗi cung ứng bền vững, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ.
Bên cạnh đó, việc thực hiện Cơ chế một cửa ASEAN và Cơ chế một cửa Quốc gia đã được luật hóa tại Luật Hải quan năm 2014 và Nghị định số 08/2015/NĐ-CP, đã mang lại cho doanh nghiệp dịch vụ logistics nhiều lợi ích, như: Giảm thời gian thực hiện thủ tục hành chính; Giảm số hồ sơ phải nộp cho các cơ quan quản lý; Đơn giản hóa quy trình giao tiếp với cơ quan quản lý… Với việc hàng loạt các chứng từ phải nộp, phải xuất trình được đơn giản hóa, thậm chí loại bỏ và kéo theo lợi ích về mặt chi phí và thời gian thực hiện thủ tục hành chính trong hoạt động logistics.
Còn theo Dự thảo Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Bộ Công Thương xây dựng, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 6%-8%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 60%-70%; chi phí logistics giảm xuống tương đương 16%-18% GDP. Đến năm 2050, tỷ trọng đóng góp đạt 12%-15%; tỷ lệ thuê ngoài đạt 70%-90%; chi phí logistics giảm xuống tương đương 10%-12%; xếp hạng theo chỉ số hiệu quả logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 30 trở lên.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Kết quả đạt được
Số liệu từ “Báo cáo Logistics Việt Nam 2024: Khu thương mại tự do” của Bộ Công Thương cho thấy, ngành logistics đang đóng góp khoảng 4%-5% GDP, với tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 14%-16%/năm trong giai đoạn 2018-2023. Năm 2024, Việt Nam được xếp hạng 10 về các thị trường logistics mới nổi; hạng 4 chỉ số cơ hội logistics và top 43 chỉ số hiệu quả logistics.
Điểm nổi bật của ngành logistics hiện nay là hệ thống kết cấu hạ tầng tiếp tục được quan tâm đầu tư, phát triển mạnh mẽ theo hướng hiện đại, an toàn, với hơn 30.000 kho bãi hiện đại và thêm 6 trung tâm logistics cấp 1 mới; nhiều công trình đạt chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế; mạng lưới giao thông đã kết nối đến mọi vùng, miền trong cả nước, giúp nâng cao hiệu quả vận chuyển, phân phối hàng hóa, tạo động lực hình thành nên các chuỗi cung ứng logistics, giảm chi phí và thời gian giao hàng. Nhiều chính sách mới được ban hành, các quy định, thủ tục được điều chỉnh theo hướng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; công tác thông tin, tuyên truyền và các hoạt động nghiên cứu, xúc tiến, hợp tác quốc tế về logistics diễn ra sôi nổi, rộng khắp ở cả cấp trung ương và địa phương. Vấn đề xây dựng chuỗi cung ứng logistics thân thiện môi trường và phát triển bền vững được quan tâm ở cả cấp quản lý vĩ mô và địa phương, doanh nghiệp…
Theo bảng xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2023, chỉ số LPI của Việt Nam đạt 3,3 điểm, đứng thứ 43/154 quốc gia và vùng lãnh thổ, đứng thứ năm trong các nước ASEAN, tốc độ tăng trưởng doanh thu dịch vụ 14%-16%/năm, với quy mô khoảng 40-42 tỷ USD/năm, nhiều doanh nghiệp logistics được thành lập, cung cấp dịch vụ logistics hiện đại và từng bước hình thành chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ hoàn thiện tới các vùng miền trong cả nước và tới các nước trong khu vực, số doanh nghiệp logistics tăng nhanh, các trung tâm logistics có quy mô lớn đang gia tăng. Có thể thấy, xếp hạng toàn cầu về chỉ số LPI của Việt Nam tăng từ vị trí 53 (năm 2007) lên 43 (năm 2023) có sự đóng góp lớn của nỗ lực cải thiện hạ tầng, số hóa quy trình, và tối ưu hóa chuỗi cung ứng.
Một số khó khăn, hạn chế
Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành dịch vụ logistics ở nước ta cũng gặp phải một số khó khăn, hạn chế như sau:
Thứ nhất, chi phí logistics ở nước ta còn cao, tương đương khoảng 20% GDP; trong khi đó, ở các nước phát triển, tỷ lệ tương ứng chỉ khoảng 7%-9% GDP. Ví dụ như: Phí vận chuyển một container từ TP. Hồ Chí Minh đi Vũng Tàu chưa đầy 150 km, nhưng cao hơn đi Singapore; từ Nhơn Trạch về Cái Mép chỉ 40 km, nhưng phí vận chuyển lên đến 4,3 triệu đồng, trong khi từ Nhơn Trạch về Cát Lái dài 80 km chỉ 3,3 triệu đồng (Bảo Thanh, 2023). Nguyên nhân là kết nối hạ tầng giao thông còn yếu, thiếu đồng bộ giữa các địa phương liên kết vùng dẫn đến quá tải đường bộ, tăng chi phí logistics, giảm tính cạnh tranh trong thu hút xuất nhập khẩu và vận tải chuyên chở với các nước trong khu vực.
Cát Lái (TP. Hồ Chí Minh) – cảng container quốc tế lớn nhất Việt Nam, đầu mối trọng điểm trong hệ thống cảng biển vùng Đông Nam Bộ suốt nhiều năm qua bị bủa vây bởi ùn tắc đã làm suy giảm hoạt động kinh tế toàn khu vực. Trung bình mỗi ngày có khoảng 19.000 đến 20.000 lượt xe ô tô ra vào cảng, do kết cấu giao thông chưa hợp lý, vào giờ cao điểm các xe container thường bị ùn tắc ở đây vài giờ mới vào được cảng, lượng tiêu tốn nhiên liệu sẽ nhiều hơn, thời gian vận chuyển hàng hóa bị chậm lại.
Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực logistics của Việt Nam hiện nay đang yếu và thiếu. Dự kiến đến năm 2030, nhu cầu nguồn nhân lực về logistics là hơn 200.000 người; trong khi đó, khả năng đáp ứng về nguồn nhân lực logistics chỉ khoảng 10% nhu cầu thị trường. Số lao động được đào tạo bài bản về dịch vụ logistics chỉ chiếm khoảng 5%-7% số lao động đang làm trong lĩnh vực này. Một khảo sát của Viện Nghiên cứu phát triển TP. Hồ Chí Minh cũng cho thấy, có đến 53,3% số doanh nghiệp thiếu đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn và kiến thức về logistics, 30% số doanh nghiệp phải đào tạo lại nhân viên, chỉ có 6,7% doanh nghiệp hài lòng với chuyên môn của nhân viên (Bảo Thanh, 2023).
Thứ ba, doanh nghiệp logistics Việt Nam tuy nhiều nhưng không mạnh. Theo đó, Việt Nam đang có hơn 30.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong lĩnh vực logistics. Thị trường logistics có sự tham gia của hơn 5.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba (3PL). Trong đó, doanh nghiệp trong nước chiếm 89%, còn 10% là doanh nghiệp liên doanh và 1% là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia, với những tên tuổi lớn như: DHL, Kuehne+Nagel, DSV, DB Schenker… Cho dù các doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ lệ lớn, nhưng lại chỉ chiếm khoảng 30% thị phần (Hoàng Anh, 2023), còn lại thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài, vì doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy mô hạn chế cả về vốn và nhân lực cũng như kinh nghiệm hoạt động quốc tế, chưa có sự liên kết giữa các khâu trong chuỗi cung ứng logistics và giữa doanh nghiệp dịch vụ logistics với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Chính vì vậy, ở cả chiều mua và chiều bán, doanh nghiệp logistics trong nước đều bị hạn chế về “sân chơi”…
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI
Trong thời gian tới, để thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ logistics theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế, theo nhóm tác giả, cần chú trọng triển khai một số giải pháp sau:
Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động logistics. Theo đó, sửa đổi, ban hành mới các chính sách, pháp luật điều chỉnh dịch vụ logistics, vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới. Bao quát toàn diện các dịch vụ logistics, nội luật hóa các cam kết quốc tế về logistics…
Hai là, rà soát các quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm tính đồng bộ kết nối của hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành dịch vụ logistics, gắn kết quy hoạch về trung tâm logistics, cảng cạn, kho ngoại quan trong một tổng thể thống nhất. Đồng thời, tăng cường kết nối, phát triển hợp lý các phương thức vận tải, vận tải đa phương thức và dịch vụ logistics. Trong đó đặc biệt chú trọng đến công tác đẩy mạnh tái cơ cấu thị trường vận tải nội địa theo hướng giảm thị phần vận tải bằng đường bộ, tăng thị phần vận tải bằng đường sắt và đường thủy nội địa, đặc biệt là trên các hành lang vận tải chính.
Ba là, phát triển thị trường dịch vụ logistics. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho dịch vụ logistics thông qua việc đăng cai, tổ chức các hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế về logistics; Học hỏi kinh nghiệm nước ngoài trao đổi cơ hội đầu tư, hợp tác về phát triển dịch vụ logistics; Đẩy mạnh tuyên truyền cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu và thương mại nội địa về việc sử dụng dịch vụ logistics thuê ngoài theo hướng chuyên môn hóa, phân công lao động hợp lý trong chuỗi cung ứng.
Đặc biệt, cần tập trung cải thiện cơ sở hạ tầng logistics gắn với thương mại điện tử, kết hợp logistics với thương mại điện tử theo xu hướng phát triển trên thế giới và khu vực. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cho cả doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý để phục vụ sự phát triển nhanh chóng của dịch vụ logistics.
Bốn là, trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0, việc chuyển đổi số trong ngành logistics là một yếu tố không thể thiếu để tối ưu hóa hoạt động và nâng cao hiệu quả. Các ứng dụng công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ chuỗi khối (Blockchain) và Internet vạn vật (IoT) đang ngày càng được tích hợp vào các quy trình logistics để quản lý chuỗi cung ứng thông minh và chính xác hơn. AI giúp dự đoán nhu cầu hàng hóa, tối ưu hóa các tuyến đường vận chuyển; trong khi Blockchain đảm bảo tính minh bạch và an toàn trong quá trình giao nhận hàng hóa; IoT cung cấp dữ liệu theo thời gian thực về vị trí và trạng thái của hàng hóa, giúp các doanh nghiệp theo dõi và điều chỉnh hoạt động logistics kịp thời.
Năm là, chú trọng phát triển nguồn nhân lực logistics chất lượng cao. Trong thời đại mới của kỷ nguyên số, việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cho thị trường lao động là điều tất yếu. Đặc biệt với xu hướng giao thoa logistics giữa các quốc gia trên thế giới, chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố then chốt quyết định sự phát triển bền vững của logistics Việt Nam. Theo đó, các chương trình đào tạo chuyên ngành logistics cần được xây dựng trên cơ sở gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp; tập trung đẩy mạnh các khóa bồi dưỡng kỹ năng thực hành, kỹ năng quản trị chuỗi cung ứng, ngoại ngữ và công nghệ số cho người lao động.
NECS Team Building 2025 – Kỷ Nguyên Vững Vàng, Sẵn Sàng Vươn Xa
Kỷ niệm 5 năm – Hành trình gắn kết và tự hào
Trong 2 ngày 6–7/09/2025, đại gia đình NECS đã có chuyến team building ý nghĩa tại resort Costamigo BW – Hàm Tiến, Lâm Đồng. Đây là sự kiện đặc biệt, khi gắn liền với cột mốc 5 năm hình thành và phát triển của công ty.
Chuyến đi không chỉ mang đến những phút giây nghỉ ngơi, tái tạo năng lượng cho toàn thể nhân sự, mà còn là dịp để cùng nhau nhìn lại chặng đường đã qua với niềm tự hào và biết ơn.
Giá trị đoàn kết – Nền tảng cho chặng đường mới
Thông qua những hoạt động gắn kết tập thể, từng khoảnh khắc sẻ chia và tiếng cười giòn giã, NECS thêm một lần nữa khẳng định: “Giá trị lớn nhất nằm ở con người – ở tinh thần đoàn kết và khát vọng đồng hành vì một tương lai bền vững.”
Mỗi trải nghiệm trong hành trình team building đã trở thành chất keo gắn kết, hun đúc tinh thần tập thể, tiếp thêm động lực để NECS sáng tạo, đổi mới và không ngừng tiến bước.
Hướng đến tương lai – Vươn xa hơn cùng khách hàng và đối tác
Chuyến đi đã khép lại, nhưng dư âm của nó vẫn còn vang vọng. Đây chính là hành trang để tập thể NECS bước vào giai đoạn phát triển mới – sẵn sàng chinh phục những mục tiêu lớn hơn trong 5 năm tới và xa hơn nữa.
Hãy cùng nhìn lại những khoảnh khắc đáng nhớ trong chuyến team building 2025 qua bộ ảnh đầy cảm xúc dưới đây!
Cá tra Việt Nam: Xuất khẩu vượt 1,4 tỷ USD sau 8 tháng, khẳng định vị thế toàn cầu
Xuất khẩu cá tra Việt Nam đang cho thấy sự phục hồi vững chắc trong năm 2025. Theo số liệu từ Hải quan Việt Nam, tháng 8/2025, kim ngạch xuất khẩu cá tra đạt 200 triệu USD, tăng 5% so với cùng kỳ năm 2024. Tính chung 8 tháng đầu năm, giá trị xuất khẩu vượt 1,4 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ, phản ánh nỗ lực thích ứng và mở rộng thị trường của ngành.
Xuất khẩu cá tra đang cho thấy sự phục hồi vững chắc
Cơ cấu sản phẩm: Phi lê đông lạnh vẫn dẫn dắt, chế biến sâu tăng tốc
Phi lê cá tra đông lạnh tiếp tục là sản phẩm chủ lực, đạt hơn 1,1 tỷ USD trong 8 tháng, tăng 11%. Các sản phẩm khô và đông lạnh khác đạt 246 triệu USD (+2%), trong khi sản phẩm GTGT mã HS16 – dù chiếm tỷ trọng nhỏ – lại bứt phá 32% với 36 triệu USD. Sự tăng trưởng này cho thấy doanh nghiệp cá tra đang tích cực chuyển hướng sang chế biến sâu, đáp ứng xu hướng tiêu dùng tiện lợi và giá trị gia tăng.
Thị trường: CPTPP và ASEAN trở thành động lực mới
Thị trường Trung Quốc & Hồng Kông ghi nhận mức giảm nhẹ 4%, đạt 55 triệu USD, phản ánh sự thay đổi trong nhu cầu quốc tế. Ngược lại, nhiều thị trường khác tiếp tục tăng trưởng:
Mỹ: đạt 234 triệu USD (+3,7%), duy trì vị thế quan trọng nhờ phân khúc trung – cao cấp.
CPTPP: đạt 242 triệu USD (+36%), với Nhật Bản, Canada và Mexico là những điểm đến chính, tận dụng hiệu ứng FTA và xu hướng sản phẩm tiện lợi.
ASEAN: trở thành “vành đai an toàn” với Thái Lan đạt 52 triệu USD (+31%), Philippines 26 triệu USD (+31%), cùng Malaysia và Singapore tăng trưởng ổn định.
EU: đạt 120 triệu USD (+6%), với nhu cầu ổn định tại Đức, Hà Lan và Tây Ban Nha. Tuy nhiên, để khai thác tối đa, doanh nghiệp cần chú trọng tiêu chuẩn bền vững, truy xuất nguồn gốc và xu hướng tiêu dùng xanh.
Tái định vị cá tra Việt Nam trên thị trường quốc tế
Kết quả 8 tháng đầu năm cho thấy xuất khẩu cá tra không chỉ phục hồi mà còn từng bước tái định vị trên bản đồ thương mại toàn cầu. Sự đa dạng hóa thị trường, thúc đẩy chế biến sâu và tập trung vào phân khúc giá trị cao đã giúp ngành giảm rủi ro từ các thị trường truyền thống. Với chiến lược này, cá tra Việt Nam đang củng cố vị thế và mở ra tiềm năng tăng trưởng dài hạn.
Kho Lạnh Kỷ Nguyên Mới (NECS) – Uy tín toàn cầu, dẫn đầu công nghệ
New Era Cold Storage (NECS) – Leading in Technology, Trusting in Business