Tin tức

Logistics Việt Nam Trên Hành Trình Vươn Mình Bước Vào Kỷ Nguyên Mới

dien dan logistics viet nam nam 2025 da nang 692a7dd19e475
 Diễn đàn Logistics Việt Nam 2025 với chủ đề “Logistics Việt Nam – Vươn mình tiến vào kỷ nguyên mới” thể hiện quyết tâm và tầm nhìn chiến lược để đưa logistics Việt Nam bứt phá mạnh mẽ với vai trò trung tâm trong nâng cao năng lực cạnh tranh Quốc gia trong giai đoạn phát triển mới.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và phát biểu chỉ đạo tại phiên toàn thể Diễn đàn.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự và phát biểu chỉ đạo tại phiên toàn thể Diễn đàn.

Sáng 29/11/2025, tại thành phố Đà Nẵng, Bộ Công Thương phối hợp với UBND thành phố Đà Nẵng tổ chức Phiên toàn thể Diễn đàn Logistics Việt Nam năm 2025 với chủ đề “Logistics Việt Nam – Vươn mình tiến vào kỷ nguyên mới”.

Tham dự diễn đàn có Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên, Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Lê Ngọc Quang cùng đại diện lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, đại diện các cơ quan, tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp, nhà đầu tư trong lĩnh vực logistics và các lĩnh vực kinh tế.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cùng các đại biểu tham dự Diễn đàn Logistics Việt Nam 2025.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cùng các đại biểu tham dự Diễn đàn Logistics Việt Nam 2025.

Ngành dịch vụ logistics Việt Nam có những bước phát triển khá mạnh

Phát biểu khai mạc Diễn đàn, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, logistics là ngành dịch vụ giữ vai trò quan trọng, được ví như những “mạch máu” của nền kinh tế; cầu nối giữa sản xuất – lưu thông – tiêu dùng – xuất nhập khẩu và là một trong những trụ cột trọng yếu, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, Việt Nam hiện đang hội đủ điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển các công trình hạ tầng logistics quy mô lớn và hiện đại
Theo Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên, Việt Nam hiện đang hội đủ điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển các công trình hạ tầng logistics quy mô lớn và hiện đại.

Việt Nam là quốc gia nằm trong khu vực phát triển năng động của thế giới, nơi có luồng hàng hóa tập trung, giao lưu mạnh và nền kinh tế có độ mở lớn, quy mô đứng thứ 3 ASEAN và thứ 32 thế giới; Top 20 về quy mô thương mại quốc tế và Top 15 về thu hút FDI, cùng thị trường tiêu thụ rộng lớn (gồm thị trường nội địa trên 100 triệu dân với sức mua khá lớn và thị trường xuất khẩu của gần 6 tỷ người tiêu dùng trong 17 FTA đã được ký kết, thực thi); kim ngạch xuất nhập khẩu và thương mại điện tử trong khoảng 10 năm qua luôn tăng trưởng ở mức hai con số, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường có nhiều tiềm năng, điều kiện để phát triển dịch vụ logistics.

Ngoài ra, với vị trí địa lý chiến lược và tiềm năng, thế mạnh về phát triển hạ tầng cảng biển nước sâu, sân bay quốc tế, các đầu mối giao thông đường bộ cao tốc, đường sắt tốc độ cao với các nước trong khu vực và thế giới, Việt Nam hội đủ điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển các công trình hạ tầng logistics quy mô lớn và hiện đại.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết Việt Nam hội đủ điều kiện thuận lợi để xây dựng, phát triển các công trình hạ tầng logistics quy mô lớn và hiện đại.

Thời gian qua, với sự quan tâm, chỉ đạo sát sao, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự vào cuộc tích cực, hiệu quả của các ban, bộ, ngành và các địa phương; đặc biệt là nỗ lực vượt bậc của cộng đồng doanh nghiệp, ngành dịch vụ logistics Việt Nam đã có những bước phát triển khá mạnh (tăng bình quân 14 – 16%/năm, gấp hơn 2 lần mức tăng bình quân của thế giới; quy mô thị trường dịch vụ logistic Việt Nam khoảng 45 – 50 tỷ USD, tương đương 10% GDP và 5% kim ngạch xuất nhập khẩu, từng bước khẳng định được thương hiệu, vị thế của Ngành trong khu vực và thế giới). Năm 2025, Việt Nam được các tổ chức quốc tế đánh giá, xếp hạng thuộc Top 10 thị trường logistics mới nổi; Top 4 trong khu vực về Chỉ số cơ hội logistics và Top 5 ASEAN, Top 40 thế giới về Chỉ số Hiệu quả Logistics.

Bên cạnh đó, Bộ trưởng nhấn mạnh, ngành dịch vụ logistics Việt Nam phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của đất nước; chi phí logistics còn ở mức cao so với các nước trong khu vực, dẫn tới năng lực cạnh tranh thấp; tính liên kết vùng, kết nối hạ tầng chưa đồng bộ; thiếu hụt nhân lực chất lượng cao; việc chuyển đổi số, chuyển đổi xanh trong Logistics mới ở giai đoạn đầu, thiếu cơ sở dữ liệu dùng chung… là những điểm nghẽn lớn, cần sớm có các giải pháp đồng bộ, đủ mạnh và khả thi để tháo gỡ, khơi thông các nguồn lực, thúc đẩy sự phát triển của ngành dịch vụ quan trọng này, góp phần xứng đáng cho sự phát triển của Ngành và kinh tế đất nước.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho rằng cần sớm có các giải pháp đồng bộ, đủ mạnh và khả thi để tháo gỡ, khơi thông các nguồn lực, thúc đẩy sự phát triển của ngành Logistics.

Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới – Kỷ nguyên của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi xanh, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng, mang đến những thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Những biến động về kinh tế, chính trị thế giới và các xu hướng kinh doanh mới (như dịch chuyển chuỗi cung ứng, thương mại điện tử xuyên biên giới, tiêu chuẩn phát triển xanh và bền vững) cùng với sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày càng gay gắt cũng đặt ra nhiều thách thức mới đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và dịch vụ logistics nói riêng.

Mới đây, Bộ Công Thương đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 – 2035, tầm nhìn đến 2050.

Theo đó, mục tiêu phấn đấu trong 10 năm tới là xây dựng, phát triển dịch vụ logistics Việt Nam bền vững, hiệu quả, chất lượng cao, có giá trị gia tăng lớn và năng lực cạnh tranh mạnh, phát huy tối đa lợi thế của Việt Nam trong chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu, từng bước hiện thực hóa mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một quốc gia mạnh về logistics, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cùng với đó, việc sáp nhập địa giới hành chính, giải thể cấp hành chính trung gian, thực hiện chính quyền địa phương hai cấp cũng góp phần mở rộng không gian phát triển hạ tầng và dịch vụ logistics.

Theo Bộ trưởng, tiếp nối thành công của các năm trước, Diễn đàn năm nay được tổ chức với chủ đề “Logistics Việt Nam – Vươn mình tiến vào kỷ nguyên mới” nhằm phát đi thông điệp mạnh mẽ của Chính phủ về việc thu hút, khuyến khích đầu tư, phát triển dịch vụ logistics với những chính sách mới đủ mạnh, khả thi và cơ chế thông thoáng, hấp dẫn để tạo động lực đột phá thúc đẩy phát triển kinh tế nói chung và ngành dịch vụ logistics nói riêng. Bởi, trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, logistics là một trong những lợi thế cạnh tranh quan trọng và là công cụ hữu hiệu để các quốc gia tận dụng tối đa lợi ích mà quá trình hội nhập mang lại.

Bí thư Thành ủy Lê Ngọc Quang phát biểu tại diễn đàn
Bí thư Thành ủy Lê Ngọc Quang phát biểu tại phiên toàn thể Diễn đàn.

Tại phiên toàn thể, các đại biểu thảo luận sôi nổi về tình hình phát triển logistics Việt Nam; tiềm năng, thế mạnh; cơ chế, chính sách, định hướng phát triển logistics Việt Nam. Đặc biệt, các đại biểu có nhiều tham luận về: Logistics Việt Nam: từ Chiến lược đến cơ hội bứt phá; Doanh nghiệp logistics Việt Nam trước bước ngoặt thời đại; Khát vọng của doanh nghiệp tiên phong đưa logistics tiến ra thị trường thế giới; Xu hướng phát triển logistics thông minh và những cơ hội ngành logistics Việt Nam cần nắm bắt; Thúc đẩy logistics quốc gia thông qua ngành Công nghiệp Hàng hải…

đại biểu tham luận
đại biểu tham luận
đại biểu tham luận
đại biểu tham luận

Các đại biểu trình bày tham luận tại phiên toàn thể Diễn đàn.

Nhiều điểm sáng về phát triển logistics

Phát biểu chỉ đạo tại phiên toàn thể Diễn đàn, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đánh giá cao việc lần thứ 13 Diễn đàn được tổ chức nhằm thúc đẩy ngành logistics phát triển nhanh và bền vững – ngành giữ vai trò huyết mạch trong luân chuyển hàng hóa, và là một trong những “trụ cột” thúc đẩy năng lực cạnh tranh quốc gia.

Với vai trò, vị trí quan trọng như vậy, Đảng và Nhà nước rất quan tâm ban hành nhiều nghị quyết, chủ trương tập trung phát triển Logistics. Trong các nghị quyết của Bộ Chính trị về phát triển vùng luôn có một nội dung quan trọng về Logistics. Từ các quy hoạch phát triển vùng, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các nghị quyết, các chương trình hành động để thực hiện, trong đó nêu rõ đầu tư nguồn lực, xây dựng cơ chế chính sách, phát triển hạ tầng….

Thủ tướng chỉ rõ 8 nhiệm vụ chung, quan trọng để phát triển ngành logistics
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu chỉ đạo tại phiên toàn thể Diễn đàn.

Thông qua thực hiện các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, Thủ tướng ghi nhận một số điểm sáng về phát triển logistics trong thời gian qua.

Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng dịch vụ logistics nhanh và ổn định, đạt bình quân 14-16%/năm, đóng góp trực tiếp 4,5-5% trong GDP hàng năm. Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2023, Việt Nam xếp thứ 43/139 quốc gia về Chỉ số Năng lực logistics (LPI), thuộc Top 5 trong ASEAN cùng với 4 quốc gia Singapore, Malaysia, Thái Lan và Indonesia.

Thứ hai, chi phí logistics đã giảm xuống, còn khoảng 16% GDP (từ mức trên 20% GDP vào năm 2014), tiết kiệm hàng tỷ USD mỗi năm cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Thứ ba, hệ thống kết cấu hạ tầng logistics được đầu tư đồng bộ, đặc biệt là mạng lưới cảng biển, sân bay, đường cao tốc, trung tâm logistics tại các vùng kinh tế trọng điểm như: TP. HCM, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Cần Thơ…

Thứ tư, khu vực doanh nghiệp logistics ngày càng lớn mạnh với hơn 34.000 doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, ứng dụng công nghệ cao trong quản trị vận hành, đổi mới sáng tạo.

Thứ năm, các hiệp định thương mại tự do đã tạo ra môi trường thuận lợi để logistics Việt Nam hội nhập sâu, mở rộng thị trường dịch vụ quốc tế trên các bình diện: Thị trường – hạ tầng (theo chuẩn quốc tế) – chuỗi cung ứng – hợp tác, đầu tư – nguồn nhân lực và tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế.

Thứ sáu, những kết quả này đã góp phần trực tiếp nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa, giảm chi phí xuất nhập khẩu, thúc đẩy tăng trưởng thương mại quốc tế và luân chuyển hàng hóa trong nước, ước quy mô thương mại quốc tế năm 2025 khoảng 900 tỷ USD.

Chuyển đổi mạnh mẽ từ hỗ trợ logistics nhỏ lẻ sang phát triển logistics hiện đại, thông minh

Bên cạnh những kết quả đạt được, Thủ tướng cũng chỉ ra, ngành logistics Việt Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập, trong đó có 6 điểm nghẽn.

Thủ tướng Phạm Minh Chính
Theo Thủ tướng, ngành logistics Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa phát triển.

Một là, chi phí logistics ở Việt Nam vẫn còn cao so với các nước trong khu vực (Singapore chỉ 8% GDP, Malaysia 12%, trung bình thế giới khoảng 11%, trong khi Việt Nam hiện khoảng 15-16% GDP).

Hai là, liên kết vùng, kết nối hạ tầng chưa đồng bộ, hạn chế, dễ bị tác động khi xảy ra các sự cố; liên kết về logistics giữa các vùng với nhau, giữa các tỉnh, thành phố với nhau, giữa khu vực của chúng ta trong khu vực Đông Nam Á, liên kết với chuỗi giá trị toàn cầu còn yếu.

Ba là, doanh nghiệp logistics quy mô vừa và nhỏ chiếm đa số, năng lực cạnh tranh chưa cao, chưa có nhiều doanh nghiệp lớn.

Bốn là, chưa hình thành được các trung tâm logistics cấp quốc gia trung chuyển hàng hóa quốc tế.

Năm là, thể chế chưa đáp ứng với thực tiễn phát triển logistics, chưa có những quy định cụ thể về ưu đãi cho phát triển logistics.

Sáu là, chuyển đổi kép, chuyển đổi số và chuyển đổi xanh, hạ tầng xanh trong logistics còn hạn chế, chưa hình thành được trung tâm dữ liệu logistics…

Thủ tướng nêu rõ, những hạn chế, điểm nghẽn đó đòi hỏi chúng ta phải đổi mới tư duy phát triển, chuyển đổi mạnh trạng thái từ hỗ trợ logistics nhỏ lẻ sang phát triển logistics hiện đại, thông minh thành một ngành kinh tế quan trọng nhằm phát huy tối đa năng lực của các địa phương; thúc đẩy liên kết các vùng kinh tế, khu vực và quốc tế; coi dịch vụ logistics là yếu tố động lực, dịch vụ thiết yếu thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội và từ tư duy “quản lý” sang “kiến tạo và phục vụ” theo đúng tinh thần Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025-2035, tầm nhìn 2050 mới được Thủ tướng Chính phủ ban hành.

8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp quan trọng

Theo Thủ tướng, những kết quả đạt được trong phát triển logistics rất đáng ghi nhận, tuy nhiên chưa xứng tầm với ưu thế về vị trí địa – chính trị, địa – kinh tế, ngành logistics Việt Nam vẫn còn nhiều dư địa phát triển. Để góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân trên 10%/năm liên tục trong 5 năm tới, các ngành, các cấp, các địa phương, lĩnh vực phải tăng trưởng 2 con số. Trong đó, riêng ngành logistics phải phấn đấu tốc độ tăng trưởng trung bình hằng năm đạt 15-16% (gấp 1,5 lần mức tăng trưởng GDP); tỷ trọng giá trị tăng thêm của dịch vụ logistics trong GDP đạt 6-7%; kéo giảm chi phí logistics xuống mức trung bình của thế giới, khoảng 11-12%…

Thủ tướng Phạm Minh Chính
Thủ tướng chỉ rõ 8 nhiệm vụ chung, quan trọng để phát triển ngành logistics.

Để đạt được các mục tiêu trên, Thủ tướng nêu rõ và yêu cầu tập trung vào 8 nhóm nhiệm vụ, giải pháp chung, quan trọng.

Trước hết, yêu cầu hoàn thiện thể chế, cơ chế chính sách logistics đảm bảo tính ổn định, đồng bộ, minh bạch, khả thi, giảm mạnh thủ tục hành chính và các rào cản để giảm chi phí thực thi, tuân thủ cho người dân, doanh nghiệp. “Đây là một giải pháp rất quan trọng mà các cấp, các ngành, các bộ chúng ta phải làm“, Thủ tướng nhấn mạnh.

Thứ hai, phát triển hạ tầng logistics xanh, số, thông minh, hiện đại; kết nối cơ sở dữ liệu logistics với Một cửa quốc gia. Tăng cường hợp tác quốc tế về logistics xanh, logistics carbon thấp và duy trì tỷ trọng giá trị gia tăng ở mức cao, khoảng 20-25% vào năm 2030.

Thứ ba, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển xanh, phát triển số, thông minh, hiện đại; cùng với phát triển các doanh nghiệp logistics lớn, đa quốc gia, tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.

Con người vẫn là trung tâm, chủ thể, nguồn lực cho sự phát triển và chúng ta phải đầu tư xứng đáng; kết hợp giữa nhà nước với tư nhân trong đào tạo, liên kết giữa nhà trường với doanh nghiệp và với yêu cầu phát triển của xã hội“, Thủ tướng lưu ý và yêu cầu đi đôi với phát triển nguồn nhân lực, cần phải phát triển doanh nghiệp logistics, không những là doanh nghiệp vừa và nhỏ mà phải là doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu, doanh nghiệp đa quốc gia.

Thứ tư, xây dựng cơ chế huy động nguồn lực để phát triển logistics xanh, số, hiện đại, thông minh; đẩy mạnh hợp tác công tư, kết hợp nguồn lực nhà nước và tư nhân, trong nước và ngoài nước, vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp, vốn vay…

Thứ năm, quản trị logistics phải thông minh, thông qua kết nối doanh nghiệp, cơ quan quản lý, hải quan, ngân hàng, bảo hiểm, vận tải; khuyến khích đổi mới sáng tạo, khởi nghiệp, nhất là các startup công nghệ số, nền tảng kết nối vận tải, quản lý kho, thương mại điện tử…

Thứ sáu, phát triển đồng bộ các dịch vụ liên quan phục vụ ngành logistics như: ngân hàng, bảo hiểm, trung tâm tài chính, chứng khoán, y tế, giáo dục…

Thứ bảy, kết nối logistics Việt Nam với hệ thống logistics khu vực, quốc tế với tầm nhìn và hành động, liên kết tạo sức mạnh, hợp tác tạo ra lợi ích và đối thoại củng cố lòng tin.

Thứ tám, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong ngành logistics, đây là yêu cầu khách quan, lựa chọn chiến lược, ưu tiên hàng đầu. Thủ tướng nêu rõ, nông nghiệp là điểm tựa, trụ đỡ giúp đất nước ta thoát nghèo; công nghiệp giúp nước ta trở thành nước có thu nhập trung bình cao và khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số sẽ giúp đất nước ta trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Thủ tướng chỉ rõ 8 nhiệm vụ chung, quan trọng để phát triển ngành logistics
Thủ tướng giao nhiệm vụ cụ thể với các cấp, các ngành, địa phương.

Về các nhiệm vụ cụ thể với các cấp, các ngành, địa phương, Thủ tướng yêu cầu:

Bộ Công Thương khẩn trương hướng dẫn, phối hợp cùng với các bộ, ngành, địa phương và hiệp hội, doanh nghiệp logistics tổ chức thực hiện đúng lộ trình Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 – 2035, tầm nhìn đến 2050.

Bộ Tài chính kiện toàn tổ chức và cơ chế hoạt động của Ủy ban Chỉ đạo quốc gia về Cơ chế một cửa ASEAN, Cơ chế một cửa quốc gia và Tạo thuận lợi thương mại (Ủy ban 1899); phát huy mạnh mẽ hiệu lực, hiệu quả của cơ chế liên ngành, phối hợp từ Trung ương đến địa phương để kịp thời tái cơ cấu chuỗi cung ứng, dịch vụ logistics quốc tế và trong nước, chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng hiệu quả, nâng cao giá trị gia tăng, xác định: phát triển hạ tầng logistics là nền tảng, phát triển dịch vụ logistics thông minh là động lực và phát triển xanh, số, hiện đại là trung tâm.

Bộ Tài chính cùng với Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, xây dựng các chính sách tài chính, tín dụng, quỹ phát triển logistics xanh để khuyến khích, thúc đẩy các doanh nghiệp logistics chuyển đổi số, chuyển đổi xanh mạnh mẽ trong thời gian tới.

Bộ Xây dựng tiếp tục chủ trì, phối hợp chặt chẽ với Bộ Công Thương và các địa phương triển khai thực hiện quy hoạch giao thông bảo đảm kết nối hiệu quả với các trung tâm logistics trên địa bàn cả nước, gắn quy hoạch trung tâm logistics với quy hoạch cảng biển, cảng cạn, kho ngoại quan; hoàn thiện cơ sở hạ tầng cả về đường bộ, đường sắt, đường thủy nội địa, đường biển và đường hàng không…

Trên cơ sở quy hoạch, các địa phương bám sát thực tiễn, triển khai đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, tránh dàn trải, xác định rõ ưu tiên đầu tư để triển khai hiệu quả các dự án trọng điểm, đột phá, tạo ra liên kết vùng, liên kết trong nước và quốc tế.

Các địa phương như Hải Phòng, Đà Nẵng phát huy tiềm năng, lợi thế, cơ hội các cơ chế, chính sách trong phát triển logistics với tinh thần gương mẫu, đi đầu. Trong đó, TP. Đà Nẵng phát triển và phát huy lợi thế Khu thương mại tự do đầu tiên của cả nước, hoàn thiện kết cấu hạ tầng, thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics, tạo cơ hội giúp Thành phố và cả nước bắt kịp xu thế phát triển của khu vực và thế giới. Chủ động quy hoạch trung tâm logistics vùng, thu hút đầu tư, triển khai mô hình “đô thị logistics thông minh” và phát huy lợi thế của Khu thương mại tự do.

Các bộ ngành, địa phương, cơ quan tập trung xây dựng cơ sở dữ liệu logistics quốc gia, kết nối với hệ thống Cơ chế một cửa quốc gia, C/O điện tử, hải quan số, cảng thông minh, vận tải đa phương thức số hóa. Nâng cao tỉ lệ thủ tục hành chính xử lý trực tuyến, chất lượng cung cấp dịch vụ công trực tuyến và mức độ hài lòng của người dân; đưa logistics trở thành một trong những ngành ưu tiên trong Chiến lược quốc gia về chuyển đổi số, thúc đẩy chuyển đổi số toàn diện trong logistics nhằm phục vụ doanh nghiệp, người dân tốt nhất.

Các chủ thể liên quan hợp tác đầu tư logistics trên tinh thần “bình đẳng, cùng phát triển, cùng có lợi, cùng có trách nhiệm với xã hội, người lao động và bảo vệ môi trường; lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ“.

Phấn đấu đưa Việt Nam trở thành trung tâm dịch vụ logistics hàng đầu khu vực và thế giới

Nhấn mạnh phương châm “Nhà nước kiến tạo, doanh nghiệp tiên phong, công tư đồng hành, đất nước phát triển, nhân dân hạnh phúc“, Thủ tướng nêu rõ, Chính phủ cam kết: Giữ vững ổn định chính trị – xã hội và ổn định kinh tế vĩ mô; chuyển trạng thái của nền hành chính từ quản lý sang phục vụ và kiến tạo phát triển; tiếp tục quyết liệt thực hiện 3 đột phá về thể chế, hạ tầng, nhân lực; phát triển mạnh các chuỗi cung ứng xanh, giảm chi phí tuân thủ, chi phí đầu vào; xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, công bằng, bình đẳng, công khai, minh bạch và cơ chế chính sách ổn định, kiến tạo, có tính cạnh tranh và dự báo cao, thực thi minh bạch và trách nhiệm giải trình; khuyến khích, tạo không gian sáng tạo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các chủ thể; tiếp tục đầu tư, xây dựng quy hoạch không gian phát triển và kết cấu hạ tầng hiện đại, thích ứng với biến đổi khí hậu

Thủ tướng Phạm Minh Chính chứng kiến lễ trao văn kiện hợp tác giữa các cơ quan, doanh nghiệp
Thủ tướng Phạm Minh Chính chứng kiến lễ trao văn kiện hợp tác giữa các cơ quan, doanh nghiệp.

Chính phủ kiên định phương châm hành động “5 thông”: “Thể chế thông thoáng – Hạ tầng thông suốt – Quản trị thông minh – Cách làm thông dụng – Hợp tác thông hiểu” để đưa logistics trở thành ngành kinh tế quan trọng, góp phần hiện thực hóa mục tiêu đến năm 2035, Việt Nam thuộc nhóm 30 nước đứng đầu thế giới về Chỉ số Năng lực logistics (LPI).

Với tinh thần “đã nói là làm, đã cam kết phải thực hiện, đã làm, đã thực hiện là có sản phẩm, kết quả cụ thể”, “biến không thành có, biến khó thành dễ, biến không thể thành có thể“, Thủ tướng mong muốn cộng đồng doanh nghiệp logistics tiếp tục đổi mới quản trị, liên kết chuỗi, đẩy mạnh chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, đồng thời phát huy tinh thần “tự lực, tự cường, đổi mới, sáng tạo, đoàn kết, hợp tác“, vươn ra khu vực và thế giới. Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ Logistics Việt Nam (VLA), Hiệp hội Phát triển nhân lực Logistics Việt Nam (VALOMA) và các hiệp hội Logistics địa phương đóng vai trò cầu nối, góp ý chính sách, hỗ trợ đào tạo, xúc tiến thương mại dịch vụ logistics ra thị trường quốc tế.

Việt Nam có lợi thế để ngành logistics phát triển bứt phá, hội nhập và dẫn đầu ở khu vực nếu chúng ta có tầm “nhìn xa trông rộng”, “nghĩ sâu làm lớn”, trên tinh thần “nguồn lực bắt nguồn từ tư duy và tầm nhìn, động lực bắt nguồn từ đổi mới và sáng tạo, sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân và doanh nghiệp”, biết phát huy trí tuệ, coi trọng thời gian và sự quyết đoán để biến thách thức thành cơ hội, biến ý chí thành hành động, biến tiềm năng, lợi thế thành sản phẩm.

Hiệp hội Logistics Đà Nẵng ra mắt
Ra mắt Hiệp hội Logistics Đà Nẵng.
Ra mắt Hiệp hội Logistics Đà Nẵng
Ra mắt Hiệp hội Logistics Đồng Nai.

Thủ tướng tin tưởng rằng, với sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị, sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức quốc tế và cộng đồng doanh nghiệp, các bên liên quan sẽ phát huy tinh thần cùng lắng nghe, thấu hiểu, cùng chia sẻ tầm nhìn và hành động, cùng làm, cùng thắng, cùng hưởng, cùng phát triển, cùng chia sẻ niềm vui, hạnh phúc và sự tự hào, xây dựng thành công hệ sinh thái logistics quốc gia, đưa Việt Nam trở thành trung tâm dịch vụ logistics hàng đầu khu vực Đông Nam Á, châu Á và thế giới.

Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên và Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Lê Ngọc Quang trao Bằng khen, hoa chúc mừng tới tập thể, cá nhân có thành tích trong phát triển dịch vụ logistics năm 2025.
Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên và Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Lê Ngọc Quang trao Bằng khen cho các tập thể, cá nhân có thành tích trong phát triển dịch vụ logistics năm 2025.

Phát biểu kết luận phiên toàn thể Diễn đàn Logistics Việt Nam 2025, thay mặt ngành Công Thương và các đơn vị liên quan, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên ghi nhận và tiếp thu ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Thủ tướng Chính phủ và trân trọng cảm ơn những kiến nghị xác đáng của các đại diện, các Ban, Bộ, ngành Trung ương, các địa phương, các nước, các tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng, các chuyên gia, các nhà khoa học tại diễn đàn.

“Sau sự kiện này, với vai trò là cơ quan đầu mối, quản lý nhà nước về dịch vụ logistics, Bộ Công Thương sẽ phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tập trung giải quyết hoặc báo cáo cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết dứt điểm những nút thắt, những vướng mắc, bất cập để ngành dịch vụ logistics tiếp tục đổi mới và phát triển nhanh, bền vững, thực sự trở thành ngành dịch vụ mũi nhọn, động lực quan trọng thúc đẩy sản xuất và xuất nhập khẩu, đóng góp tích cực, xứng đáng vào sự phát triển kinh tế – xã hội đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.

Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm kết thúc phiên toàn thể Diễn đàn Logistics Việt Nam 2025
Các đại biểu chụp ảnh lưu niệm chúc mừng phiên toàn thể Diễn đàn Logistics Việt Nam 2025 thành công tốt đẹp.

Trong khuôn khổ diễn đàn, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên cùng các đại biểu chứng kiến Lễ trao biên bản ghi nhớ hợp tác giữa các đơn vị; Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên và Bí thư Thành ủy Đà Nẵng Lê Ngọc Quang trao Bằng khen cho các tập thể, cá nhân có thành tích trong phát triển dịch vụ logistics năm 2025; đồng thời chứng kiến lễ ra mắt các Hiệp hội Logistics Đà Nẵng, Hiệp hội Logistics Đồng Nai.

Kho Lạnh Kỷ Nguyên Mới (NECS) – Uy tín toàn cầu, dẫn đầu công nghệ
New Era Cold Storage (NECS) – Leading in Technology, Trusting in Business
– Business Hotline: 0939.121212
– Business Email: kinhdoanh@necs.vn
– Customer Care: 0934.084.380
– Address: Lot B25, B26, B27, B28-2 2nd Street, Phu An Thanh Industrial Park, Ben Luc Commune, Tay Ninh Province
– Website: www.necs.vn 

Ngành cá rô phi Việt Nam bứt tốc: Từ cơ hội ngắn hạn đến chiến lược dài hạn

benh cua ca ro phi va bien phap phong tri

Theo dự báo của Rabobank, sản lượng cá rô phi toàn cầu có thể vượt 7 triệu tấn vào năm 2025, nhờ sự phục hồi mạnh tại các thị trường sản xuất lớn như Trung Quốc, Indonesia, Ai Cập, Bangladesh và Việt Nam. Trong bối cảnh biến động của chuỗi cung ứng quốc tế, Việt Nam được đánh giá là một trong những nguồn cung cá rô phi đang trỗi dậy nhờ khả năng tận dụng tốt cơ hội thị trường để mở rộng sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu.

Ngành cá rô phi Việt Nam bứt phá mạnh trong 9 tháng đầu năm

Trong 9 tháng đầu năm 2025, xuất khẩu cá rô phi Việt Nam đạt 57,3 triệu USD, tăng tới 332% so với cùng kỳ năm 2024. Tháng 8 là thời điểm tăng trưởng nổi bật nhất với doanh thu gần 10 triệu USD, phản ánh sự linh hoạt và khả năng ứng biến nhanh của doanh nghiệp Việt Nam trước biến động thị trường quốc tế. Hiện sản phẩm cá rô phi Việt Nam đã thâm nhập nhiều thị trường quan trọng, trong đó Mỹ giữ vai trò chủ lực, chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng kim ngạch.

Tuy nhiên, bước sang quý IV, đà tăng trưởng dự kiến chững lại do lượng tồn kho tại Mỹ tăng sau giai đoạn nhập khẩu mạnh trong quý II và III. Diễn biến này cho thấy Việt Nam cần chuyển hướng từ việc tận dụng các cơ hội ngắn hạn sang xây dựng một chiến lược phát triển bền vững hơn – tập trung vào nâng cao chất lượng, đa dạng hóa thị trường và định vị thương hiệu cá rô phi Việt Nam trên trường quốc tế.

Chú thích ảnh

Trung Quốc và Brazil mất lợi thế vì thuế quan

Trung Quốc – nhà sản xuất cá rô phi lớn nhất thế giới với sản lượng khoảng 1,6 triệu tấn mỗi năm – hiện phải chịu mức thuế 55% khi xuất khẩu sang Mỹ. Điều này khiến đơn hàng giảm mạnh, nhiều hợp đồng bị hoãn hoặc hủy, tồn kho nội địa tăng kỷ lục. Giá cá tăng nhẹ nhưng chi phí nuôi tăng nhanh khiến doanh nghiệp thua lỗ.

Brazil – quốc gia từng được kỳ vọng thay thế Trung Quốc – cũng rơi vào tình trạng tương tự khi bị Mỹ áp thuế 50% từ tháng 8, dẫn đến xuất khẩu đình trệ và buộc doanh nghiệp tăng giá, kéo giảm khả năng cạnh tranh.

Cả Trung Quốc lẫn Brazil đều buộc phải đẩy sản lượng về tiêu thụ nội địa nhưng hiệu quả thấp do giá thành giảm không bù được chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn gặp áp lực cạnh tranh nội địa gay gắt. Nhìn chung, ngành cá rô phi hai quốc gia này đang đối mặt với nhiều khó khăn: xuất khẩu giảm, giá thấp và tâm lý thị trường suy yếu.

Từ cơ hội ngắn hạn đến nền tảng chiến lược dài hạn cho Việt Nam

Lợi ích sức khỏe của cá rô phi | Báo Pháp Luật TP. Hồ Chí Minh

Bài học từ Trung Quốc và Brazil cho thấy sự phụ thuộc quá lớn vào một thị trường hoặc một dòng sản phẩm khiến ngành dễ bị tổn thương khi chính sách thay đổi. Khi Mỹ áp thuế, cả hai quốc gia đều gặp khó khăn trong việc xoay chuyển đơn hàng và duy trì xuất khẩu ổn định.

Đối với Việt Nam, đây là thời điểm quan trọng để chuyển hóa lợi thế tạm thời thành chiến lược phát triển dài hạn. Ngành cá rô phi cần:

  • Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, mở rộng sang EU, Trung Đông, Nam Mỹ.

  • Phát triển các sản phẩm giá trị gia tăng như cá rô phi tẩm bột, sản phẩm chế biến sẵn, đóng gói tiện lợi.

  • Đầu tư cải tiến giống, công nghệ nuôi và chế biến sâu nhằm nâng cao năng suất, giảm chi phí, đáp ứng tiêu chuẩn bền vững.

Trong bối cảnh nhu cầu toàn cầu tiếp tục tăng và xu hướng chọn lựa sản phẩm thân thiện môi trường ngày càng rõ rệt, Việt Nam có cơ hội xây dựng thương hiệu cá rô phi quốc gia, củng cố vị thế trong chuỗi cung ứng toàn cầu – không chỉ lấp vào khoảng trống ngắn hạn, mà hướng tới vai trò nhà cung cấp chiến lược, ổn định và giá trị cao.

Nguồn VASEP.

Kho Lạnh Kỷ Nguyên Mới (NECS) – Uy tín toàn cầu, dẫn đầu công nghệ
New Era Cold Storage (NECS) – Leading in Technology, Trusting in Business
– Business Hotline: 0939.121212
– Business Email: kinhdoanh@necs.vn
– Customer Care: 0934.084.380
– Address: Lot B25, B26, B27, B28-2 2nd Street, Phu An Thanh Industrial Park, Ben Luc Commune, Tay Ninh Province
– Website: www.necs.vn 

Tăng Trưởng Xuất Khẩu Thủy Sản Việt Nam 9 Tháng Đầu Năm 2025: Đà Tăng Tích Cực Nhưng Quý Cuối Gặp Thách Thức

image1

Kết thúc quý III/2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt 2,7 tỷ USD, tăng 10% so với cùng kỳ năm trước, tuy thấp hơn hai quý đầu năm. Lũy kế 9 tháng, xuất khẩu đạt 8,36 tỷ USD, tăng 16%, cho thấy ngành vẫn duy trì đà tăng trưởng tích cực dù chịu nhiều sức ép. Sự sụt giảm nhẹ trong quý III phản ánh tác động của thuế đối ứng 20% từ Hoa Kỳ áp dụng từ tháng 8, khiến nhiều doanh nghiệp phải điều chỉnh kế hoạch giao hàng và tìm hướng chuyển hướng thị trường.

Trong cơ cấu sản phẩm, tôm tiếp tục là mặt hàng chủ lực với kim ngạch 3,4 tỷ USD (+22%), mức cao nhất trong ba năm qua. Cá tra đạt 1,6 tỷ USD (+9%), nhờ phục hồi tại các thị trường CPTPP và Trung Đông. Mực, bạch tuộc, nhuyễn thể và cua ghẹ đều ghi nhận tăng trưởng hai con số, trong khi cá ngừ giảm nhẹ do thiếu nguyên liệu và xung đột tại Trung Đông ảnh hưởng chuỗi cung ứng.

Tăng trưởng 9 tháng đầu năm xuất khẩu thủy sản  “giảm tốc” cuối năm

Nguồn: VASEP

Các thị trường xuất khẩu chính gồm Trung Quốc và Hồng Kông (1,8 tỷ USD, +34%), Hoa Kỳ (1,4 tỷ USD, +8,4%), Nhật Bản (1,3 tỷ USD, +17%), và EU (884 triệu USD, +13%). Đáng chú ý, CPTPP tiếp tục tăng trưởng ấn tượng +25%, cho thấy hiệu quả của việc tận dụng các hiệp định thương mại tự do để đa dạng hóa thị trường.

Tuy nhiên, bức tranh quý III cũng bộc lộ nhiều thách thức. Thuế đối ứng Mỹ, các quy định về truy xuất nguồn gốc và bảo vệ động vật có vú biển (MMPA) đang trở thành rào cản lớn cho xuất khẩu quý IV và năm 2026. Thẻ vàng IUU của EU vẫn chưa được gỡ bỏ, khiến nhóm hải sản khai thác gặp khó khi tiếp cận thị trường cao cấp. Thêm vào đó, biến động tỷ giá, chi phí logistics tăng và cạnh tranh từ các đối thủ như Ấn Độ, Ecuador, Indonesia gây áp lực lên lợi nhuận doanh nghiệp Việt.

Dù vậy, vẫn tồn tại cơ hội chiến lược. EU nới lỏng rào cản kỹ thuật với thủy sản nuôi trồng, mở ra dư địa tăng trưởng cho tôm và cá tra. CPTPP mở rộng với Anh, giúp đa dạng hóa kênh thương mại và mở rộng cơ hội cho sản phẩm chế biến cao cấp. Trung Quốc vẫn duy trì nhu cầu lớn đối với sản phẩm tươi sống và cao cấp phục vụ HORECA, đặc biệt trong các tháng cuối năm.

Dự báo quý IV/2025, xuất khẩu thủy sản sẽ chững lại, đạt khoảng 2,19 tỷ USD, giảm hơn 22% so với cùng kỳ do tác động của thuế đối ứng và nguy cơ áp thuế CBPG đối với tôm vào Mỹ. Tôm và cá tra – hai mặt hàng chủ lực – dự kiến giảm tốc, trong khi cá ngừ, mực, bạch tuộc chịu ảnh hưởng từ thẻ vàng IUU và quy định MMPA. Ngược lại, EU và Trung Quốc vẫn duy trì nhu cầu ổn định, giúp kim ngạch cả năm 2025 ước đạt 10,5 tỷ USD, tăng khoảng 5% so với năm 2024.

Tình hình xuất khẩu quý I/2026 được dự báo tiếp tục giảm do tác động dây chuyền từ thuế và MMPA. Từ quý II/2026, tốc độ phục hồi sẽ phụ thuộc vào khả năng Việt Nam tháo gỡ rào cản thuế, IUU, cùng việc đa dạng hóa thị trường và nâng tỷ trọng hàng chế biến giá trị cao.

Kho Lạnh Kỷ Nguyên Mới (NECS) – Uy tín toàn cầu, dẫn đầu công nghệ
New Era Cold Storage (NECS) – Leading in Technology, Trusting in Business
– Business Hotline: 0939.121212
– Business Email: kinhdoanh@necs.vn
– Zalo OA: https://zalo.me/539021117056565945
– Customer Care: 0934.084.380
– Address: Lot B25, B26, B27, B28-2 2nd Street, Phu An Thanh Industrial Park, Ben Luc Commune, Tay Ninh Province
– LinkedIn: https://www.linkedin.com/company/kho-lanh-ky-nguyen-moi-necs
– Youtube: http://www.youtube.com/@kholanhkynguyenmoinecs
– Website: www.necs.vn 

TP.HCM Hợp Nhất Ba Hiệp Hội Logistics – Hướng Đến Trung Tâm Logistics Hàng Đầu Đông Nam Á

HN 01955 scaled

Ba hiệp hội logistics lớn của TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu đã hợp nhất, được kỳ vọng sẽ tạo ra xung lực mới, tăng sức cạnh tranh và sự liên kết trong toàn vùng.

Bộ Công Thương kỳ vọng sau khi ba hiệp hội hợp nhất, cụm cảng mới có thể vươn lên nhóm 30 - 35 toàn cầu - Ảnh: QUANG ĐỊNH
Bộ Công Thương kỳ vọng sau khi ba hiệp hội hợp nhất, cụm cảng mới có thể vươn lên nhóm 30 – 35 toàn cầu – Ảnh: QUANG ĐỊNH

Hiệp hội duy nhất tại Việt Nam kết hợp cả hai lĩnh vực logistics và cảng biển

Ngày 31-10, ba hiệp hội gồm Hiệp hội Logistics Bình Dương, Hiệp hội Logistics và Cảng biển Bà Rịa – Vũng Tàu và Hiệp hội Logistics TP.HCM chính thức hợp nhất, thành lập Hiệp hội Logistics và Cảng biển TP.HCM (HLA).

Theo cơ cấu nhân sự được thông qua tại đại hội, bà Đặng Thị Minh Phương – Tổng giám đốc Công ty CP MP Logistics – được bầu giữ chức Chủ tịch HLA.

7 Phó chủ tịch gồm: Bà Võ Thị Phương Lan – Chủ Tịch HĐQT – TGĐ Công Ty CP Giao Nhận Vận Tải Mỹ Á, ông Trương Tấn Lộc – Chủ tịch Cảng TCIT – Cảng Quốc Tế Tân Cảng – Cái Mép, bà Huỳnh Đinh Thái Linh – Giám Đốc Phát Triển Thương Mại Quốc Tế & Logistics – Tập đoàn Becamex, ông Cao Hồng Phong – Phó Tổng Giám Đốc Công Ty CP Cảng Cái Mép Gemadept – Terminal Link, ông Lê Phan Minh Vũ – Phó Tổng Giám Đốc BWID, ông Lương Quang Thi – Chủ Tịch HĐQT Công Ty CP Giải Pháp Thương Mại ABA Cooltrans, ông Nguyễn Lê Chơn Tâm – Tổng Giám Đốc Công Ty CP Cảng Sài Gòn.

TP.HCM hợp nhất ba hiệp hội, hướng đến trung tâm logistics hàng đầu khu vực Đông Nam Á - Ảnh: CÔNG TRUNG
TP.HCM hợp nhất ba hiệp hội, hướng đến trung tâm logistics hàng đầu khu vực Đông Nam Á – Ảnh: CÔNG TRUNG

Tại đại hội, các doanh nghiệp thành viên đã thống nhất mục tiêu nâng tầm dịch vụ logistics và phát triển hệ thống cảng biển TP.HCM theo hướng đồng bộ, hiện đại và hội nhập khu vực.

Phát biểu tại sự kiện, bà Đặng Thị Minh Phương cho biết HLA là hiệp hội duy nhất tại Việt Nam kết hợp cả hai lĩnh vực logistics và cảng biển, đánh dấu bước phát triển quan trọng của ngành.

Tân Chủ tịch Hiệp hội Logistics và Cảng biển TP.HCM tự hào khi được góp phần kết nối sức mạnh của cả ba địa phương TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu, nhằm tạo nên một hệ sinh thái logistics thống nhất, hiệu quả hơn.

Với sự đồng hành của các cơ quan quản lý, bà Phương tin tưởng thứ hạng của hệ thống cảng biển TP.HCM sẽ được nâng lên rõ rệt trong thời gian tới.

“Mục tiêu của chúng tôi là đưa ngành dịch vụ logistics TP.HCM phát triển mạnh mẽ, trở thành trung tâm logistics hàng đầu khu vực Đông Nam Á”, bà Phương nhấn mạnh.

Cảng biển TP.HCM sẽ thăng thứ hạng trên toàn cầu

Ông Trần Thanh Hải – Phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) – đánh giá TP.HCM là địa bàn có hoạt động logistics và xuất nhập khẩu sôi động bậc nhất cả nước.

Việc hợp nhất ba hiệp hội logistics của TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu thành một tổ chức thống nhất tạo ra xung lực mới, tăng sức cạnh tranh và sự liên kết trong toàn vùng.

Theo ông Hải, cả ba địa phương TP.HCM, Bình Dương và Bà Rịa – Vũng Tàu đều là những trung tâm sản xuất, xuất nhập khẩu và logistics năng động.

Trước đây mỗi địa phương đều có hiệp hội riêng, cho thấy ngành logistics khu vực phía Nam đã phát triển mạnh mẽ, trong khi nhiều địa phương khác vẫn đang trong giai đoạn hình thành mô hình tổ chức tương tự.

Với sự hợp nhất, hệ thống cảng biển TP.HCM khi kết nối cùng các cảng ở Bà Rịa – Vũng Tàu sẽ có quy mô và năng lực cạnh tranh vượt trội. Trước đây, cảng biển TP.HCM và cảng Bà Rịa – Vũng Tàu riêng rẽ đã nằm trong top 50 cảng lớn nhất thế giới. Khi hợp nhất, cụm cảng mới có thể vươn lên nhóm 30 – 35 toàn cầu.

Bên cạnh đó, TP.HCM có lợi thế đặc biệt khi hội tụ đủ các loại hình vận tải cảng biển, hàng không, đường bộ, đường sắt và đường thủy nội địa, cùng hệ thống kho bãi, giao nhận, hải quan điện tử phát triển mạnh mẽ. TP.HCM sẽ trở thành trung tâm logistics quốc tế, không chỉ dẫn đầu Việt Nam mà còn vươn tầm khu vực Đông Nam Á và thế giới.

Ông Hải cho biết ngày 9-10, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 2229/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam giai đoạn 2025-2035, tầm nhìn đến năm 2050.

Theo chiến lược này, TP.HCM cùng Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ được xác định là năm trung tâm logistics mang tầm quốc tế trong 10 năm tới.

TP.HCM có lợi thế đặc biệt khi hội tụ đủ các loại hình vận tải cảng biển, hàng không, đường bộ, đường sắt và đường thủy nội địa - Ảnh: QUANG ĐỊNH
TP.HCM có lợi thế đặc biệt khi hội tụ đủ các loại hình vận tải cảng biển, hàng không, đường bộ, đường sắt và đường thủy nội địa – Ảnh: QUANG ĐỊNH

“Việc ra đời Hiệp hội Logistics và Cảng biển TP.HCM đúng thời điểm này là sự trùng hợp đầy ý nghĩa. Đây là cơ hội để TP.HCM đi đầu trong việc triển khai chiến lược logistics quốc gia, khẳng định vai trò trung tâm đầu tàu của cả nước” – ông Hải nhấn mạnh.

Ông Lê Văn Danh – Phó giám đốc Sở Công Thương TP.HCM – cho biết TP.HCM hiện chiếm 23,5% GRDP cả nước, trong đó ngành logistics đóng góp khoảng 8,5%.

Riêng hàng hóa xuất nhập khẩu qua hệ thống cảng biển TP.HCM chiếm tới 70% tổng lượng hàng hóa cả nước, khẳng định vai trò trọng yếu của ngành trong chuỗi cung ứng quốc gia.

Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển logistics Việt Nam, trong đó xác định TP.HCM phải trở thành trung tâm logistics đẳng cấp quốc tế.

Sở Công Thương TP.HCM cam kết đồng hành cùng Hiệp hội Logistics và Cảng biển TP.HCM trong việc hoạch định chiến lược, xây dựng cơ chế và chính sách phù hợp nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động logistics.

Bên cạnh đó, Sở Công Thương giao ba vai trò trọng tâm cho Hiệp hội Logistics và Cảng biển TP.HCM.

Thứ nhất làm đầu mối kết nối doanh nghiệp không chỉ trong ngành logistics mà còn giữa các lĩnh vực liên quan.

Thứ hai huy động nguồn lực xã hội, tham gia đầu tư phát triển hạ tầng và dịch vụ logistics.

Thứ ba tiên phong chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, xây dựng hệ sinh thái logistics, cảng biển xanh, hiện đại và hội nhập quốc tế.

Nhiều động lực phát triển và chính sách hỗ trợ mạnh mẽ

Ông Danh cho biết TP.HCM đang triển khai đề án quy hoạch 8 trung tâm logistics quy mô lớn trên toàn địa bàn, đồng thời xây dựng chính sách hỗ trợ lãi suất đầu tư, có thể hỗ trợ tới 50% lãi suất cho các dự án trung tâm logistics trọng điểm.

Song song đó, thành phố đang hoàn thiện cơ chế thu hút đầu tư thông thoáng, từ quy hoạch đất đai, kêu gọi doanh nghiệp chiến lược, đến chính sách vận hành thuận lợi.

Trong hai tháng qua, Sở Công Thương TP.HCM đã xây dựng chính sách đặc thù dựa trên Nghị quyết 98 của Quốc hội, tập trung vào hai nội dung lớn liên quan đến logistics.

Một là cho phép kêu gọi nhà đầu tư chiến lược tham gia các dự án trung tâm logistics quy mô lớn.

Hai là nghiên cứu thành lập và vận hành khu thương mại tự do (FTZ) với ưu đãi về thuế, đất đai và thủ tục hành chính, nhằm tăng sức cạnh tranh và thu hút đầu tư quốc tế.

“Với định hướng đó, TP.HCM kỳ vọng trở thành đầu tàu logistics của Việt Nam, góp phần khẳng định vị thế trung tâm kinh tế, thương mại hàng đầu khu vực”, ông Danh khẳng định.

Nguồn: Báo Tuổi Trẻ

Kho Lạnh Kỷ Nguyên Mới (NECS) – Uy tín toàn cầu, dẫn đầu công nghệ
New Era Cold Storage (NECS) – Leading in Technology, Trusting in Business
– Business Hotline: 0939.121212
– Business Email: kinhdoanh@necs.vn
– Customer Care: 0934.084.380
– Address: Lot B25, B26, B27, B28-2 2nd Street, Phu An Thanh Industrial Park, Ben Luc Commune, Tay Ninh Province
– Website: www.necs.vn 

Tuyển dụng Chuyên viên Kinh doanh

Tuyển dụng vị trí: Chuyên viên Kinh doanh (Full time, Cộng tác viên).

Phòng ban: Phòng Kinh doanh.

Địa điểm làm việc: KCN Phú An Thạnh, xã Bến Lức, tỉnh Tây Ninh (Long An cũ).
Đơn vị: Công ty Cổ phần Kho lạnh Kỷ Nguyên Mới (NECS).

___________________________________________________________________________

Giới thiệu về Công ty

NECS là đơn vị tiên phong trong lĩnh vực kho lạnh và chuỗi cung ứng tại Việt Nam, với hệ thống kho bãi hiện đại và mạng lưới đối tác chiến lược toàn cầu. Chúng tôi tìm kiếm một Nhân viên/ Chuyên viên Kinh doanh tài năng – người đóng vai trò nòng cốt trong việc mở rộng thị trường và hiện thực hóa chiến lược phát triển kinh doanh của công ty.

___________________________________________________________________________

Mô tả công việc

Chịu trách nhiệm phát triển thị trường, tìm kiếm khách hàng, triển khai bán hàng và chăm sóc khách hàng trong lĩnh vực cho thuê kho lạnh/kho mát/kho ngoại quan, logistics, đại lý hải quan, đảm bảo đạt và vượt chỉ tiêu doanh thu được giao.

  1. Phát triển thị trường và tìm kiếm khách hàng:
  • Nghiên cứu thị trường, ngành hàng tiềm năng và đối thủ cạnh tranh.
  • Tìm kiếm và tiếp cận khách hàng mới qua các kênh trực tiếp, trực tuyến, mối quan hệ, hội chợ…
  • Lập kế hoạch tiếp cận thị trường và triển khai kế hoạch khai thác khách hàng mục tiêu.
  • Đảm bảo doanh thu theo kế hoạch tháng/quý được giao từ cấp trên.
  1. Bán hàng và triển khai dịch vụ:
  • Tiếp nhận và tư vấn dịch vụ cho thuê kho/logistics phù hợp với nhu cầu khách hàng.
  • Soạn thảo, thương thảo, làm báo giá và ký kết hợp đồng dịch vụ.
  • Phối hợp với các bộ phận liên quan (vận hành kho, kế toán, pháp lý…) để đảm bảo quá trình triển khai dịch vụ đúng cam kết.
  • Giám sát tiến độ thực hiện dịch vụ, xử lý các phát sinh và đảm bảo sự hài lòng của khách hàng.
  1. Chăm sóc khách hàng và duy trì mối quan hệ:
  • Chăm sóc khách hàng hiện hữu, giải đáp thắc mắc, tiếp nhận và xử lý khiếu nại.
  • Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ và duy trì hợp tác lâu dài với khách hàng.
  1. Báo cáo và các công việc khác:
  • Lập báo cáo tuần/tháng/quý về tình hình kinh doanh, tiến độ, doanh thu và phản hồi khách hàng.
  • Phân tích kết quả, đề xuất các biện pháp cải thiện hiệu quả bán hàng.
  • Thực hiện các công việc khác theo phân công của quản lý.

Yêu cầu ứng viên:

Trình độ học vấn:

  • Tốt nghiệp Cao đẳng/Đại học chuyên ngành: Quản trị kinh doanh, Logistics, Xuất nhập khẩu, Ngoại thương, Kinh tế hoặc các ngành liên quan.

Kinh nghiệm:

  • Kinh nghiệm từ 1 – 3 năm, ưu tiên ứng viên đã từng làm sales dịch vụ kho lạnh/kho hàng/kho ngoại quan/logistics hoặc sales B2B …
  • Ưu tiên có kinh nghiệm về kinh doanh thủy hải sản, nông sản, xuất nhập khẩu.

Kỹ năng:

  • Thành thạo kỹ năng bán hàng và chăm sóc khách hàng.
  • Hiểu biết về quy trình khai thác kho, dịch vụ lưu trữ và vận hành lạnh/mát.
  • Kỹ năng đàm phán, thương lượng và thuyết phục khách hàng.
  • Tư duy dịch vụ và khả năng xử lý tình huống linh hoạt.
  • Trình độ ngoại ngữ: Tiếng Anh giao tiếp cơ bản, đọc hiểu hợp đồng/báo giá.
  • Trình độ tin học: Word, Excel, PowerPoint, sử dụng hệ thống CRM/phần mềm quản lý khách hàng… là lợi thế.

Thái độ, phẩm chất:

  • Nhiệt tình, trung thực, chịu được áp lực doanh số, có định hướng khách hàng.
  • Giao tiếp tốt, chủ động, có tinh thần phục vụ khách hàng.

___________________________________________________________________________

Quyền lợi:

  • Thưởng theo KPI.
  • Xe đưa đón từ TP. HCM.
  • Khám sức khoẻ định kỳ hàng năm.
  • Lương Tháng 13.
  • Thưởng Lễ/Tết.
  • Tham gia đầy đủ BHXH các loại.
  • 12 ngày phép năm.
  • Cung cấp đồng phục.
  • Môi trường làm việc chuyên nghiệp.
  • Cơ hội được đào tạo chuyên sâu về sản phẩm và quy trình dịch vụ.
  • Thời gian làm việc: 08:00 – 17:00 từ T2 – Sáng T7 (nghỉ trưa 1 tiếng).

___________________________________________________________________________

Cách thức ứng tuyển:

Vui lòng gửi hồ sơ về email: tuyendung@necs.vn.

Tiêu đề email: [ỨNG TUYỂN CHUYÊN VIÊN KINH DOANH – HỌ TÊN].

Tuyển dụng Nhân viên Nhập liệu

MÔ TẢ CÔNG VIỆC

 

Tuyển dụng vị trí: Nhân viên Nhập liệu

Phòng ban: Phòng Vận hành kho

Địa điểm làm việc: KCN Phú An Thạnh, xã Bến Lức, tỉnh Tây Ninh (Long An cũ).
Đơn vị: Công ty Cổ phần Kho lạnh Kỷ Nguyên Mới (NECS).

 

MÔ TẢ CÔNG VIỆC

– Thực hiện và hoàn thành nhập- xuất- hạ kiểm hàng cho khách hàng.
– Hoàn thành chứng từ ký nhận, lưu trữ, gửi mail cho khách hàng, gửi chứng từ lên phòng kế toán.
– Tương tác, trao đổi và phản hồi thông tin với khách hàng.
– Cập nhật kế hoạch của khách hàng đến các phòng ban.
– Trình đề xuất mua văn phòng phẩm.
– Cập nhật tiêu hao vật tư (màng bọc, băng keo)
– Thực hiện công việc theo bảng mô tả công việc của nhân viên nhập liệu.
– Công việc cụ thể trao đổi khi phỏng vấn.

QUYỀN LỢI:

  • Thưởng theo KPI.
  • Xe đưa đón từ TP. HCM.
  • Khám sức khoẻ định kỳ hàng năm.
  • Lương Tháng 13.
  • Thưởng Lễ/Tết.
  • Tham gia đầy đủ BHXH các loại.
  • 12 ngày phép năm.
  • Cung cấp đồng phục.
  • Môi trường làm việc chuyên nghiệp.
  • Cơ hội được đào tạo chuyên sâu về sản phẩm và quy trình dịch vụ.
  • Được đào tạo để thường xuyên nâng cao nghiệp vụ. Cơ hội được học hỏi, làm việc với công nghệ mới.
  • Thời gian làm việc: Ca 1: 07-15h; Ca 2: 15-23h (Xoay ca mỗi tuần)

YÊU CẦU ỨNG VIÊN

  • Tốt nghiệp cao đẳng/đại học các ngành Kế toán, Tài chính, Kiểm toán
  • Thành thạo tin học văn phòng
  • Có trách nhiệm trong công việc
  • Năng động, nhiệt tình, cẩn thận
  • Kỹ năng giao tiếp và giải quyết vấn đề
  • Tinh thần làm việc đồng đội
  • Chưa có kinh nghiệm sẽ được đào tạo

Cách thức ứng tuyển:

  • Vui lòng gửi hồ sơ về email: tuyendung@necs.vn.
  • Tiêu đề email: [VỊ TRÍ ỨNG TUYỂN – HỌ TÊN].

Tuyển dụng Nhân viên Quản lý Chất lượng (QHSE)

Tuyển dụng vị trí: Nhân viên Quản lý Chất lượng (QHSE)

Phòng ban: Phòng Quản lý Chất lượng

Địa điểm làm việc: KCN Phú An Thạnh, xã Bến Lức, tỉnh Tây Ninh

Đơn vị: Công ty Cổ phần Kho lạnh Kỷ Nguyên Mới (NECS)

___________________________________________________________________________

Giới thiệu về Công ty

NECS là đơn vị tiên phong trong lĩnh vực kho lạnh và chuỗi cung ứng tại Việt Nam, với hệ thống kho bãi hiện đại và mạng lưới đối tác chiến lược toàn cầu.

___________________________________________________________________________

Mô tả công việc

Quản lý & triển khai hệ thống An toàn – Chất lượng

  • Triển khai công việc phòng An toàn – Chất lượng xuống các nhân viên trong phòng.
  • Xây dựng, áp dụng, duy trì và cải tiến hệ thống An toàn – Chất lượng cho toàn công ty.
  • Lên kế hoạch công tác và thiết lập mục tiêu An toàn – Chất lượng của phòng và công ty hàng năm.
  • Tư vấn, hỗ trợ các phòng ban trong công ty trong việc xây dựng, triển khai áp dụng, duy trì và phát triển hệ thống AT–CL.

Đánh giá, kiểm soát & cải tiến hệ thống

  • Tổ chức các đợt đánh giá nội bộ, xem xét lãnh đạo hàng năm trong công ty.
  • Định kỳ tổ chức các cuộc họp an toàn trong toàn công ty.
  • Liên hệ và tiếp các đoàn đánh giá của cơ quan hữu quan, khách hàng, tổ chức chứng nhận.
  • Thúc đẩy các phòng hoàn thành các khắc phục trong các đợt đánh giá bên trong và ngoài công ty.
  • Định kỳ đánh giá công tác an toàn tại các khu vực làm việc của công ty.

Đào tạo, tuyên truyền & phát triển năng lực An toàn – Chất lượng

  • Thực hiện công tác quản lý và tổ chức đào tạo an toàn – chất lượng trong công ty.
  • Huấn luyện an toàn cho nhân viên mới.
  • Thực hiện công tác tổ chức đào tạo HSE khi được phân công.
  • Hướng dẫn an toàn cho khách, nhà thầu phụ đến tham quan, làm việc tại công ty.
  • Tham gia các khóa học, đào tạo khi được chỉ định.

Ứng phó, điều tra & tuân thủ pháp lý

  • Điều tra, phân tích, báo cáo các tai nạn, sự cố trong phạm vi Công ty.
  • Tham gia vào việc xây dựng, lập kế hoạch và xử lý công tác ứng cứu tình huống khẩn cấp trong toàn công ty.
  • Kiểm soát việc cập nhật và tuân thủ các văn bản pháp luật và các yêu cầu liên quan đến hoạt động của công ty.

Công tác đối ngoại & nhiệm vụ phát sinh

  • Làm đầu mối quan hệ với khách hàng và các đối tác/nhà thầu phụ liên quan công tác an toàn – chất lượng.
  • Thực hiện các công việc khác do Ban Tổng giám đốc giao.

____________________________________________________________________________

Yêu cầu ứng viên:

Trình độ học vấn:

  • Tốt nghiệp CĐ/ĐH chuyên ngành An toàn lao động, Kỹ thuật môi trường, Quản lý chất lượng, Quản lý công nghiệp, hoặc các ngành kỹ thuật liên quan
  • Tiếng Anh cơ bản chuyên ngành
  • Hiểu biết các yêu cầu tiêu chuẩn ISO 9001,22000,45001 và pháp luật hiện hành về an toàn sức khỏe và môi trường

Kỹ năng:

  • Làm việc độc lập
  • Giải quyết vấn đề
  • Giao tiếp tốt trong nội bộ lẫn làm việc với ban ngành chức năng

Phẩm chất:

  • Có trách nhiệm trong công việc
  • Cẩn thận, chăm chỉ
  • Tinh thần làm việc đồng đội

___________________________________________________________________________

Quyền lợi:

  • Xe đưa đón từ TP. HCM.
  • Khám sức khoẻ định kỳ hàng năm.
  • Lương Tháng 13.
  • Thưởng Lễ/Tết.
  • Cung cấp đồng phục.
  • 12 ngày phép năm
  • Các chế độ, quyền lợi từ Công đoàn.
  • Tham gia đầy đủ BHXH các loại.
  • Thời gian làm việc: 08:00 – 17:00 từ T2 – Sáng T7 (nghỉ trưa 1 tiếng).

___________________________________________________________________________

Cách thức ứng tuyển:

NECS Tham Gia CFSE 2025 – Kiến tạo hệ sinh thái logistics đạt chuẩn quốc tế cho ngành thủy sản toàn cầu

kv CFSE

Sau hành trình ghi dấu ấn tại các triển lãm quốc tế, Trung Quốc được NECS chọn làm điểm đến chiến lược tiếp theo – nơi hội tụ của những trung tâm logistics, thương mại và thủy sản lớn nhất thế giới. Không chỉ là thị trường tiêu thụ khổng lồ, Trung Quốc còn là “cửa ngõ” kết nối Đông – Tây, mở ra cơ hội hợp tác và phát triển mạng lưới logistics lạnh xuyên biên giới.

Mở Rộng Hành Trình Toàn Cầu, Kết Nối Chuỗi Cung Ứng Tương Lai

NECS tự hào góp mặt tại China Fisheries & Seafood Expo (CFSE) 2025, diễn ra từ 29–31/10/2025 tại Hongdao International Convention and Exhibition Center, Thanh Đảo,Trung Quốc, để giới thiệu đến cộng đồng quốc tế những giải pháp logistics lạnh toàn diện mang dấu ấn Việt Nam.

kv CFSE

Đến với CFSE 2025, NECS mang theo hình ảnh của một hệ sinh thái logistics lạnh toàn diện và khép kín, sẵn sàng đáp ứng nhu cầu lưu trữ, thông quan và vận chuyển cho chuỗi cung ứng thủy sản và thực phẩm toàn cầu.

Từ hệ thống kho lạnh tiêu chuẩn quốc tế, dịch vụ đại lý hải quan và logistics xuyên biên giới, đến giải pháp vận tải tích hợp và công nghệ quản trị thông minh, NECS tạo nên chuỗi giá trị liền mạch “từ cảng – kho – thông quan – vận chuyển”. Tất cả được thiết kế nhằm hỗ trợ doanh nghiệp xuất – nhập khẩu nhanh hơn, an toàn hơn và tối ưu chi phí hơn – đặc biệt trong bối cảnh thương mại khu vực đang mở rộng và kết nối sâu với Trung Quốc.

Kết Nối Với NECS Tại CFSE 2025!

Chúng tôi rất mong được đón tiếp quý khách hàng, đối tác tại gian hàng NECS trong sự kiện CFSE 2025. Đây là nơi bạn có thể:

  • Trải nghiệm trực tiếp hệ sinh thái logistics khép kín từ cảng, thông quan, kho bãi đến vận chuyển

  • Thảo luận giải pháp logistics toàn diện cho thị trường Trung Quốc và Châu Á

  • Thiết lập mối quan hệ hợp tác chiến lược, mở rộng mạng lưới giao thương

Chúng tôi rất mong được kết nối trực tiếp với các đối tác, nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu và đơn vị logistics quốc tế – cùng chia sẻ tầm nhìn về một chuỗi cung ứng lạnh bền vững, thông minh và hiệu quả.

Địa điểm

Hongdao International Convention and Exhibition Center

Thời gian

29-31/10/2025

Gian hàng

B8 - 1415

Đặt Lịch Hẹn Với Chúng Tôi!

Vui lòng bật JavaScript trong trình duyệt của bạn để hoàn thành Form này.
Full Name/ Họ và tên
Ngày hẹn/ Preferred Date
Khung giờ/ Preferred Time

Xuất Khẩu Thủy Sản Tăng Tốc 9 Tháng Đầu Năm: Đan Xen Cả Cơ Hội Lẫn Thách Thức

Thủy sản Việt Nam đang gặp khó khăn trên thị trường quốc tế

Tháng 9/2025, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đạt gần 991 triệu USD, tăng 7,5% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung 9 tháng, con số đã cán mốc 8,33 tỷ USD, cao hơn 15,5% so với năm 2024. Kết quả này không chỉ phản ánh sự phục hồi mạnh mẽ của ngành sau giai đoạn nhiều biến động, mà còn thể hiện khả năng thích ứng nhanh chóng của doanh nghiệp Việt trước những rào cản trên thị trường quốc tế.

Tôm và cá tra tiếp tục giữ vai trò chủ lực

Xuất khẩu thủy sản tăng tốc 9 tháng đầu năm Cơ hội và thách thức đan xen

Trong cơ cấu sản phẩm, tôm tiếp tục dẫn đầu khi riêng tháng 9 đã mang về gần 410 triệu USD, đưa tổng kim ngạch 9 tháng lên 3,38 tỷ USD (+20,3%). Động lực tăng trưởng đến từ nhu cầu ổn định tại Mỹ, Nhật Bản, EU cùng với sự gia tăng đơn hàng ở các thị trường trong khu vực.

Cá tra cũng đạt kết quả khả quan, với 191 triệu USD trong tháng 9 (+11%), nâng tổng kim ngạch 9 tháng lên hơn 1,6 tỷ USD, tăng gần 10% so với cùng kỳ. Sự phục hồi nhu cầu tại Trung Quốc, Mỹ và một số nước Trung Đông đã góp phần củng cố vị thế cá tra Việt Nam.

Ngoài ra, cá biểnmực – bạch tuộc cũng tăng trưởng mạnh. 9 tháng, cá biển đạt 1,61 tỷ USD (+18,5%), mực – bạch tuộc 550 triệu USD (+18,7%). Đặc biệt, nhuyễn thể có vỏ ghi nhận mức tăng hơn 30%, đạt 192 triệu USD. Trái lại, cá ngừ giảm nhẹ còn 705 triệu USD (-3,2%), phản ánh sự cạnh tranh gay gắt của phân khúc cá đại dương.

Thị trường: Trung Quốc – Hàn Quốc bứt phá, Mỹ chững lại

Xuất khẩu thủy sản tăng tốc 9 tháng đầu năm Cơ hội và thách thức đan xen

Về thị trường, Trung Quốc và Hồng Kông vẫn là điểm sáng khi 9 tháng đạt 1,76 tỷ USD (+32,1%), dù riêng tháng 9 có sụt nhẹ. Mỹ lại cho thấy sự chững lại: tháng 9 giảm hơn 6%, nhưng tính chung 9 tháng vẫn đạt 1,41 tỷ USD (+6,8%). Nguyên nhân đến từ thuế chống bán phá giá (CBPG) và quy định nghiêm ngặt của Đạo luật Bảo vệ động vật có vú biển (MMPA).

Nhật BảnEU tiếp tục duy trì tăng trưởng ổn định, lần lượt đạt 1,27 tỷ USD (+15,6%) và 885 triệu USD (+13,3%). Hàn Quốc nổi lên với tốc độ tăng gần 50% trong tháng 9, đưa lũy kế 9 tháng lên 645 triệu USD (+13%). Ngoài ra, ASEAN (536 triệu USD, +23,3%) và Trung Đông (295 triệu USD, +7,6%) cũng trở thành “cửa ngõ” tiềm năng, riêng tháng 9 tăng hơn 50%.

Linh hoạt tận dụng cơ hội

Đằng sau kết quả tăng trưởng là sự chủ động của doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh xuất khẩu, tận dụng giai đoạn trước khi một số rào cản thuế và kỹ thuật mới được áp dụng. Nhiều công ty đã tái cơ cấu thị trường, gia tăng xuất khẩu sang châu Á và song song giữ vững các thị trường truyền thống.

Đặc biệt, xu hướng tập trung vào sản phẩm chế biến, giá trị gia tăng, đáp ứng tiêu chuẩn an toàn và truy xuất nguồn gốc đã giúp thủy sản Việt duy trì lợi thế cạnh tranh, nhất là ở phân khúc trung – cao cấp.

Thách thức còn nhiều

Ngành thủy sản vẫn đang đối mặt với không ít khó khăn:

  • Thuế CBPG và thuế đối ứng tại Mỹ cùng một số thị trường, khiến lợi nhuận bị bào mòn.

  • Quy định khắt khe của MMPA gây áp lực lên nhóm sản phẩm khai thác hải sản.

  • Thẻ vàng IUU từ EU chưa được gỡ bỏ, tiếp tục làm giảm uy tín và gia tăng chi phí xuất khẩu.

  • Sức ép cạnh tranh từ các quốc gia như Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia, Ecuador… ngày càng lớn, đặc biệt ở tôm và cá tra.

Hướng đi cho giai đoạn tới

Theo các chuyên gia, để duy trì đà tăng trưởng, ngành thủy sản cần tập trung vào 3 giải pháp:

  1. Theo dõi sát diễn biến thị trường và chính sách thương mại để điều chỉnh kịp thời.

  2. Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, bên cạnh Mỹ, EU, Nhật Bản, cần tăng cường khai thác ASEAN, Trung Đông và thị trường ngách.

  3. Đẩy mạnh sản phẩm giá trị gia tăng, đa dạng hóa danh mục để đáp ứng xu hướng tiêu dùng toàn cầu.

Song song, ngành cần đổi mới công nghệ trong nuôi trồng – chế biến và nâng cao thương hiệu quốc gia qua kênh ẩm thực cao cấp và thương mại điện tử.

Có thể nói, sau 9 tháng 2025, xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã cho thấy sự bứt phá với tổng kim ngạch vượt 8,3 tỷ USD. Tuy nhiên, để bảo toàn thành quả và tiếp tục mở rộng, sự chủ động, linh hoạt và sáng tạo sẽ là chìa khóa quyết định.

Kho Lạnh Kỷ Nguyên Mới (NECS) – Uy tín toàn cầu, dẫn đầu công nghệ
New Era Cold Storage (NECS) – Leading in Technology, Trusting in Business
– Business Hotline: 0939.121212
– Business Email: kinhdoanh@necs.vn
– Customer Care: 0934.084.380
– Address: Lot B25, B26, B27, B28-2 2nd Street, Phu An Thanh Industrial Park, Ben Luc Commune, Tay Ninh Province
– Website: www.necs.vn 

Giải pháp thúc đẩy ngành logistics Việt Nam phát triển bền vững và hội nhập

hinh anh 2

Cùng với điều kiện địa lý thuận lợi, Việt Nam được đánh giá có nhiều cơ hội để thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ logistics, khi hạ tầng giao thông đường bộ, đường không, đường biển, kho bãi, hạ tầng thương mại, trung tâm logistics không ngừng được mở rộng với quy mô lớn, rộng khắp. Bài viết khái quát thực trạng phát triển logistics ở Việt Nam hiện nay, từ đó đề xuất một số khuyến nghị liên quan.

Giải pháp thúc đẩy ngành logistics Việt Nam phát triển bền vững và hội nhập
Giải pháp thúc đẩy ngành logistics Việt Nam phát triển bền vững và hội nhập

ĐẶT VẤN ĐỀ

Là quốc gia nằm trong khu vực phát triển năng động của thế giới, nơi luồng hàng hoá tập trung giao lưu mạnh và nền kinh tế có độ mở lớn (trên 200%), cùng 17 hiệp định thương mại tự do đã được ký kết, thực thi với gần 70 quốc gia, vùng lãnh thổ (trong đó bao gồm hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới, chiếm 90% GDP toàn cầu); kim ngạch xuất nhập khẩu và thương mại điện tử luôn tăng trưởng ở mức 2 con số, Việt Nam được đánh giá là một trong những thị trường có nhiều tiềm năng, điều kiện để phát triển dịch vụ logistics. Mặc dù đạt tốc độ tăng trưởng khá ấn tượng, nhưng ngành logistics Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức, như: chi phí cao, cơ sở hạ tầng chưa đồng bộ, mức độ kết nối giữa các phương thức vận tải còn thấp, nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu, phần lớn doanh nghiệp nội địa có quy mô nhỏ, thiếu năng lực cạnh tranh và chưa tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Vì vậy, trong thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp để khắc phục những khó khăn, thách thức trên.

CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Để tận dụng các lợi thế, cơ hội và đưa logistics trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp tích cực vào cải thiện năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách đối với hoạt động này.

Theo đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (năm 2016) xác định, logistics là một “ngành dịch vụ giá trị gia tăng cao” và phải “hiện đại và mở rộng” dịch vụ logistics. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII của Đảng (năm 2021) đã xác định, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ là 1 trong 3 đột phá chiến lược để phát triển đất nước. Thực hiện nhiệm vụ trên, nước ta đã từng bước nâng cấp đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển, đường thủy nội địa giữa các địa phương và kết nối đồng thời với các nước.

Logistics

Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành hàng loạt những chính sách. Điển hình như: ngày 14/2/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 200/QĐ-TTg ban hành Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025. Ngày 15/5/2018, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 19/2018/NQ-CP về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2018 và những năm tiếp theo, trong đó, đề ra mục tiêu từng bước giảm chi phí logistics xuống mức bằng khoảng 18% GDP; cải thiện Xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics (LPI) thêm 10 bậc (hiện xếp thứ 64/160)… Ngày 18/7/2018, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 21/CT-TTg về đẩy mạnh triển khai các giải pháp nhằm giảm chi phí logistics, kết nối hiệu quả hệ thống hạ tầng giao thông. Theo đó, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu tập trung cải thiện cơ sở hạ tầng logistics gắn với thương mại điện tử, kết hợp logistics với thương mại điện tử theo xu hướng phát triển hiện nay trên thế giới và khu vực; Khuyến khích, hướng dẫn doanh nghiệp trong một số ngành áp dụng mô hình quản trị chuỗi cung ứng tiên tiến trong quá trình sản xuất, kinh doanh, trong đó chú trọng triển khai các hoạt động logistics trên nền tảng công nghệ thông tin và các công nghệ mới…

Đến ngày 22/2/2021, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 221/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung Quyết định số 200/QĐ-TTg ngày 14/2/2017 về việc phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025. Ngày 30/1/2022 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 11/NQ-CP về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, để góp phần đưa nền kinh tế sớm vượt qua khó khăn, giảm chi phí logistics đáp ứng được với sự vận hành của nền kinh tế trong giai đoạn mới, không lỡ nhịp với tiến trình phục hồi kinh tế toàn cầu, đồng thời tạo nền tảng và điều kiện thuận lợi cho phát triển dịch vụ logistics nói riêng và nền kinh tế nói chung cho cả giai đoạn đến năm 2025 và các năm tiếp theo.

Gần đây nhất, ngày 16/12/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 163/NQ-CP về việc đẩy mạnh triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam với quan điểm: Phát triển logistics gắn với chuỗi cung ứng bền vững, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đẩy mạnh chuyển đổi số và ứng dụng công nghệ.

Bên cạnh đó, việc thực hiện Cơ chế một cửa ASEAN và Cơ chế một cửa Quốc gia đã được luật hóa tại Luật Hải quan năm 2014 và Nghị định số 08/2015/NĐ-CP, đã mang lại cho doanh nghiệp dịch vụ logistics nhiều lợi ích, như: Giảm thời gian thực hiện thủ tục hành chính; Giảm số hồ sơ phải nộp cho các cơ quan quản lý; Đơn giản hóa quy trình giao tiếp với cơ quan quản lý… Với việc hàng loạt các chứng từ phải nộp, phải xuất trình được đơn giản hóa, thậm chí loại bỏ và kéo theo lợi ích về mặt chi phí và thời gian thực hiện thủ tục hành chính trong hoạt động logistics.

Còn theo Dự thảo Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Bộ Công Thương xây dựng, Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 tỷ trọng đóng góp của ngành dịch vụ logistics vào GDP đạt 6%-8%, tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 60%-70%; chi phí logistics giảm xuống tương đương 16%-18% GDP. Đến năm 2050, tỷ trọng đóng góp đạt 12%-15%; tỷ lệ thuê ngoài đạt 70%-90%; chi phí logistics giảm xuống tương đương 10%-12%; xếp hạng theo chỉ số hiệu quả logistics (LPI) trên thế giới đạt thứ 30 trở lên.

THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ LOGISTICS Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngành logistics cần chuyển đổi để bứt phá trong kỷ nguyên mới - VnEconomy

Kết quả đạt được

Số liệu từ “Báo cáo Logistics Việt Nam 2024: Khu thương mại tự do” của Bộ Công Thương cho thấy, ngành logistics đang đóng góp khoảng 4%-5% GDP, với tốc độ tăng trưởng trung bình đạt 14%-16%/năm trong giai đoạn 2018-2023. Năm 2024, Việt Nam được xếp hạng 10 về các thị trường logistics mới nổi; hạng 4 chỉ số cơ hội logistics và top 43 chỉ số hiệu quả logistics.

Điểm nổi bật của ngành logistics hiện nay là hệ thống kết cấu hạ tầng tiếp tục được quan tâm đầu tư, phát triển mạnh mẽ theo hướng hiện đại, an toàn, với hơn 30.000 kho bãi hiện đại và thêm 6 trung tâm logistics cấp 1 mới; nhiều công trình đạt chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế; mạng lưới giao thông đã kết nối đến mọi vùng, miền trong cả nước, giúp nâng cao hiệu quả vận chuyển, phân phối hàng hóa, tạo động lực hình thành nên các chuỗi cung ứng logistics, giảm chi phí và thời gian giao hàng. Nhiều chính sách mới được ban hành, các quy định, thủ tục được điều chỉnh theo hướng tạo thuận lợi cho doanh nghiệp; công tác thông tin, tuyên truyền và các hoạt động nghiên cứu, xúc tiến, hợp tác quốc tế về logistics diễn ra sôi nổi, rộng khắp ở cả cấp trung ương và địa phương. Vấn đề xây dựng chuỗi cung ứng logistics thân thiện môi trường và phát triển bền vững được quan tâm ở cả cấp quản lý vĩ mô và địa phương, doanh nghiệp…

Theo bảng xếp hạng của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2023, chỉ số LPI của Việt Nam đạt 3,3 điểm, đứng thứ 43/154 quốc gia và vùng lãnh thổ, đứng thứ năm trong các nước ASEAN, tốc độ tăng trưởng doanh thu dịch vụ 14%-16%/năm, với quy mô khoảng 40-42 tỷ USD/năm, nhiều doanh nghiệp logistics được thành lập, cung cấp dịch vụ logistics hiện đại và từng bước hình thành chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ hoàn thiện tới các vùng miền trong cả nước và tới các nước trong khu vực, số doanh nghiệp logistics tăng nhanh, các trung tâm logistics có quy mô lớn đang gia tăng. Có thể thấy, xếp hạng toàn cầu về chỉ số LPI của Việt Nam tăng từ vị trí 53 (năm 2007) lên 43 (năm 2023) có sự đóng góp lớn của nỗ lực cải thiện hạ tầng, số hóa quy trình, và tối ưu hóa chuỗi cung ứng.

Một số khó khăn, hạn chế

Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành dịch vụ logistics ở nước ta cũng gặp phải một số khó khăn, hạn chế như sau:

Thứ nhất, chi phí logistics ở nước ta còn cao, tương đương khoảng 20% GDP; trong khi đó, ở các nước phát triển, tỷ lệ tương ứng chỉ khoảng 7%-9% GDP. Ví dụ như: Phí vận chuyển một container từ TP. Hồ Chí Minh đi Vũng Tàu chưa đầy 150 km, nhưng cao hơn đi Singapore; từ Nhơn Trạch về Cái Mép chỉ 40 km, nhưng phí vận chuyển lên đến 4,3 triệu đồng, trong khi từ Nhơn Trạch về Cát Lái dài 80 km chỉ 3,3 triệu đồng (Bảo Thanh, 2023). Nguyên nhân là kết nối hạ tầng giao thông còn yếu, thiếu đồng bộ giữa các địa phương liên kết vùng dẫn đến quá tải đường bộ, tăng chi phí logistics, giảm tính cạnh tranh trong thu hút xuất nhập khẩu và vận tải chuyên chở với các nước trong khu vực.

Cát Lái (TP. Hồ Chí Minh) – cảng container quốc tế lớn nhất Việt Nam, đầu mối trọng điểm trong hệ thống cảng biển vùng Đông Nam Bộ suốt nhiều năm qua bị bủa vây bởi ùn tắc đã làm suy giảm hoạt động kinh tế toàn khu vực. Trung bình mỗi ngày có khoảng 19.000 đến 20.000 lượt xe ô tô ra vào cảng, do kết cấu giao thông chưa hợp lý, vào giờ cao điểm các xe container thường bị ùn tắc ở đây vài giờ mới vào được cảng, lượng tiêu tốn nhiên liệu sẽ nhiều hơn, thời gian vận chuyển hàng hóa bị chậm lại.

Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực logistics của Việt Nam hiện nay đang yếu và thiếu. Dự kiến đến năm 2030, nhu cầu nguồn nhân lực về logistics là hơn 200.000 người; trong khi đó, khả năng đáp ứng về nguồn nhân lực logistics chỉ khoảng 10% nhu cầu thị trường. Số lao động được đào tạo bài bản về dịch vụ logistics chỉ chiếm khoảng 5%-7% số lao động đang làm trong lĩnh vực này. Một khảo sát của Viện Nghiên cứu phát triển TP. Hồ Chí Minh cũng cho thấy, có đến 53,3% số doanh nghiệp thiếu đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn và kiến thức về logistics, 30% số doanh nghiệp phải đào tạo lại nhân viên, chỉ có 6,7% doanh nghiệp hài lòng với chuyên môn của nhân viên (Bảo Thanh, 2023).

Thứ ba, doanh nghiệp logistics Việt Nam tuy nhiều nhưng không mạnh. Theo đó, Việt Nam đang có hơn 30.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động trong lĩnh vực logistics. Thị trường logistics có sự tham gia của hơn 5.000 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics bên thứ ba (3PL). Trong đó, doanh nghiệp trong nước chiếm 89%, còn 10% là doanh nghiệp liên doanh và 1% là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài cung cấp dịch vụ logistics xuyên quốc gia, với những tên tuổi lớn như: DHL, Kuehne+Nagel, DSV, DB Schenker… Cho dù các doanh nghiệp trong nước chiếm tỷ lệ lớn, nhưng lại chỉ chiếm khoảng 30% thị phần (Hoàng Anh, 2023), còn lại thuộc về các doanh nghiệp nước ngoài, vì doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa, quy mô hạn chế cả về vốn và nhân lực cũng như kinh nghiệm hoạt động quốc tế, chưa có sự liên kết giữa các khâu trong chuỗi cung ứng logistics và giữa doanh nghiệp dịch vụ logistics với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Chính vì vậy, ở cả chiều mua và chiều bán, doanh nghiệp logistics trong nước đều bị hạn chế về “sân chơi”…

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP TRONG THỜI GIAN TỚI

Vượt thách thức đưa ngành logistics Việt Nam hướng đến “con đường màu xanh”  - VnEconomy

Trong thời gian tới, để thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ logistics theo hướng hội nhập kinh tế quốc tế, theo nhóm tác giả, cần chú trọng triển khai một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật, tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động logistics. Theo đó, sửa đổi, ban hành mới các chính sách, pháp luật điều chỉnh dịch vụ logistics, vận tải đa phương thức, vận tải xuyên biên giới. Bao quát toàn diện các dịch vụ logistics, nội luật hóa các cam kết quốc tế về logistics…

Hai là, rà soát các quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm tính đồng bộ kết nối của hạ tầng giao thông và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành dịch vụ logistics, gắn kết quy hoạch về trung tâm logistics, cảng cạn, kho ngoại quan trong một tổng thể thống nhất. Đồng thời, tăng cường kết nối, phát triển hợp lý các phương thức vận tải, vận tải đa phương thức và dịch vụ logistics. Trong đó đặc biệt chú trọng đến công tác đẩy mạnh tái cơ cấu thị trường vận tải nội địa theo hướng giảm thị phần vận tải bằng đường bộ, tăng thị phần vận tải bằng đường sắt và đường thủy nội địa, đặc biệt là trên các hành lang vận tải chính.

Ba là, phát triển thị trường dịch vụ logistics. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại cho dịch vụ logistics thông qua việc đăng cai, tổ chức các hội thảo, hội chợ, triển lãm quốc tế về logistics; Học hỏi kinh nghiệm nước ngoài trao đổi cơ hội đầu tư, hợp tác về phát triển dịch vụ logistics; Đẩy mạnh tuyên truyền cho các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu và thương mại nội địa về việc sử dụng dịch vụ logistics thuê ngoài theo hướng chuyên môn hóa, phân công lao động hợp lý trong chuỗi cung ứng.

Đặc biệt, cần tập trung cải thiện cơ sở hạ tầng logistics gắn với thương mại điện tử, kết hợp logistics với thương mại điện tử theo xu hướng phát triển trên thế giới và khu vực. Chú trọng đào tạo nguồn nhân lực cho cả doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý để phục vụ sự phát triển nhanh chóng của dịch vụ logistics.

Bốn là, trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0, việc chuyển đổi số trong ngành logistics là một yếu tố không thể thiếu để tối ưu hóa hoạt động và nâng cao hiệu quả. Các ứng dụng công nghệ hiện đại như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ chuỗi khối (Blockchain) và Internet vạn vật (IoT) đang ngày càng được tích hợp vào các quy trình logistics để quản lý chuỗi cung ứng thông minh và chính xác hơn. AI giúp dự đoán nhu cầu hàng hóa, tối ưu hóa các tuyến đường vận chuyển; trong khi Blockchain đảm bảo tính minh bạch và an toàn trong quá trình giao nhận hàng hóa; IoT cung cấp dữ liệu theo thời gian thực về vị trí và trạng thái của hàng hóa, giúp các doanh nghiệp theo dõi và điều chỉnh hoạt động logistics kịp thời.

Năm là, chú trọng phát triển nguồn nhân lực logistics chất lượng cao. Trong thời đại mới của kỷ nguyên số, việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cho thị trường lao động là điều tất yếu. Đặc biệt với xu hướng giao thoa logistics giữa các quốc gia trên thế giới, chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố then chốt quyết định sự phát triển bền vững của logistics Việt Nam. Theo đó, các chương trình đào tạo chuyên ngành logistics cần được xây dựng trên cơ sở gắn kết chặt chẽ giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp; tập trung đẩy mạnh các khóa bồi dưỡng kỹ năng thực hành, kỹ năng quản trị chuỗi cung ứng, ngoại ngữ và công nghệ số cho người lao động.

Vui lòng chọn ngôn ngữ bạn muốn sử dụng cho website

Please select your preferred language